sinh viên việt nam hiện nay
Tổ chức Hội Sinh viên Việt Nam: Tên Tiếng Việt: HỘI SINH VIÊN VIỆT NAM. tỉnh Bến Tre được thành lập vào năm 2016 nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay về các vấn đề ứng dụng nghiên cứu khoa học vào thực tiễn
Với mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, giúp sinh viên học tập và thích ứng nhanh với môi trường quốc tế, UFM ngoài việc đào tạo sinh viên đạt chuẩn trình độ theo quy định hiện hành của Bộ GD&ĐT, UFM cũng đã xây dựng và triển khai đào tạo chương trình đào tạo chính quy trình độ đại học chất
Cộng đồng Sinh viên Việt Nam, diễn đàn sinh viên, trang kiến thức chọn lọc cho sinh viên và giới trẻ. Top 3 cây đàn organ casio giá tốt nhất hiện nay. 1 Hôm nay lúc 11:00 chotdon247. Thông tin. Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam - Điểm đến hàng đầu dành cho sinh viên. 1 Hôm nay lúc 09:
Danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" là một danh hiệu cao quý của sinh viên Việt Nam, được đưa vào hệ thống khen thưởng cấp Quốc Gia, là cơ sở quan trọng cho việc xét học bổng, du học, tuyển dụng, … Phong trào "Sinh viên 5 tốt" là 1 cuộc đua lớn trong sinh viên cả nước; là danh hiệu Sinh viên có uy tín, là minh
Bức tranh ngành nghề: Tỷ lệ thất nghiệp hiện nay - Làm trái ngành của sinh viên Việt Nam. trong bối cảnh thị trường tuyển dụng có nhiều xáo trộn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 như hiện nay, việc chọn được một vị trí công việc phù hợp, đúng theo chuyên ngành đào
memakai gelang emas di tangan kanan atau kiri menurut islam. Lượt xem ĐẶNG THỊ TUYẾT 1 1 Viện Văn hoá và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh TÓM TẮT Sinh viên SV đại diện cho lực lượng lao động tương lai của đất nước, tiềm lực, trí tuệ, trí lực của họ quyết định sự phát triển của đất nước cả trong tương lai gần và xa. SV là tầng lớp có tri thức, có sức trẻ, năng động, sáng tạo, nhanh nhạy, dễ nắm bắt, tiếp thu cái mới, cái tích cực, phân biệt được cái tiêu cực, bảo thủ,… Vì thế, có thể khẳng định SV là tầng lớp xã hội mà ở đó tiếp nhận và hội nhập văn hoá, lựa chọn các loại hình văn hoá đại chúng VHĐC được thể hiện rõ ràng, đầy đủ nhất. Nếu được trang bị một phông văn hoá tốt, họ sẽ biết lựa chọn những sản phẩm VHĐC phù hợp, tiếp cận được tinh hoa văn hoá nhân loại mà vẫn giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Từ khóa Sinh viên, tiếp nhận, văn hóa đại chúng. Phân loại ngành Văn hóa học. ABSTRACT Abstract Students represent the future workforce of the country, with their potential, intellect, and intelligence determining the country’s development both in the near and far future. Students are knowledgeable, with vitality, dynamism, creativity, and awareness to new things, easily grasping and absorbing new and positive things, and distinguishing them with the negative ones and those not wanting renovation. Therefore, it is possible to assert that students are the social stratum where the reception and integration of culture, and the selection of types of popular culture, are demonstrated most clearly and fully. If equipped with a good cultural background, they will know how to choose the appropriate popular cultural products, approaching the quintessence of the culture of humanity while preserving and bringing into play the national identity. Keywords Students, reception, popular culture. Subject classification Cultural studies. x x x 1. Đặt vấn đề Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có sự “thay da đổi thịt” lớn, đặc biệt là về kinh tế. Bước chuyển về kinh tế đã tạo đà cho sự thay đổi về văn hoá, xã hội. Sự biến đổi về thang đo giá trị trong xã hội, sự thay đổi trong lối sống, thói quen, hành vi của người dân đã dần tiệm cận với những giá trị chung toàn cầu, nhất là trong giới trẻ. Những hiện tượng nảy sinh qua âm nhạc, thời trang, và lối sống cho thấy một lớp văn hoá mới – văn hoá giới trẻ – đã ra đời, hoàn toàn phù hợp với những biến đổi về cơ cấu kinh tế, xã hội của đất nước trong thời đại mới. Có thể thấy trong những năm qua, đời sống văn hoá người dân có nhiều chuyển biến tích cực và sôi động hơn, người dân và doanh nghiệp được tham gia sáng tạo và thụ hưởng. Hệ thống rạp chiếu phim, nhà hát… được làm mới, phát triển thêm theo hướng hiện đại để chiều lòng du khách. Các tuần lễ văn hoá Pháp, tuần lễ văn hoá Đức, tuần lễ văn hoá Ấn Độ, tuần lễ văn hoá Nhật Bản… thường xuyên được tổ chức. Bên cạnh các buổi quảng bá, giới thiệu nền điện ảnh, âm nhạc, các tuần lễ văn hoá này còn giới thiệu về Nm thực, về thời trang đất nước mình. Các ngày hội văn hoá của các quốc gia cũng thường được tổ chức ở Hà Nội, như Lễ hội Hoa anh đào Nhật Bản, Lễ hội hoa hồng Bungari. Các ngày lễ của nước ngoài như lễ Halloween, Valentine, Cosplay… đã trở thành sinh hoạt giải trí thường xuyên của SV. Đây là dịp giao lưu, gặp gỡ bạn bè, là dịp để họ được chơi, được hòa vào nhịp sống văn hóa đương đại. Tham gia các lễ hội cũng là cách để SV thể hiện và chia sẻ các giá trị cá nhân của mình với cộng đồng xã hội. Nhiều tổ chức SV qua các lễ hội, đề cao tính tự lập, tự chủ, đưa ra nhiều thông điệp về nghĩa cử nhân văn, bảo vệ môi trường, chung tay vì cộng đồng. Nếu nhìn ở khía cạnh tích cực, lễ hội thực sự là nơi trao gửi và giao lưu không chỉ văn hoá, mà còn là nơi nuôi dưỡng, trao gửi tình yêu thương. Đó thực sự là một sân chơi lành mạnh, bổ ích và giá trị cho các bạn SV bởi nó tạo môi trường giao lưu văn hóa, nâng cao sự hiểu biết, hòa nhập của SV với các nền văn hóa trên thế giới. Sự tích cực, chủ động tiếp nhận VHĐC của SV chính một phần nhờ vào bối cảnh kinh tế xã hội đặc thù của đất nước trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá. Trong quá trình toàn cầu hóa văn hóa, những đỉnh cao tiến bộ của nhân loại sẽ có sự gặp gỡ, được lan truyền và nhân rộng. Từ đó xác lập, phổ biến những giá trị và chuẩn mực mang tính nhất thể hóa ở phạm vi toàn cầu trên cơ sở đối thoại văn hóa. Bên cạnh đó, sự phát triển của ngành công nghiệp văn hoá CNVH đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và phức tạp của xã hội, đặc biệt là đối với SV. Nó góp phần tạo nên quá trình đa dạng hóa và dân chủ hóa về tri thức cho xã hội, đáp ứng một cách dễ dàng, sẵn có, thông qua việc tiêu dùng những sản phẩm VHĐC. Là ngành nghề sản xuất các sản phẩm văn hóa và cung cấp dịch vụ văn hóa, CNVH lấy sự hài lòng, thỏa mãn nhu cầu văn hóa của mọi người làm mục tiêu chủ yếu. Không những thế, CNVH còn biến mỗi cá nhân thụ hưởng văn hoá trở thành những nhà sản xuất như Paul Willi 1990 cho rằng “Những quá trình của sự hàng hoá hoá làm cơ sở cho “một nền văn hoá chung” trong việc tiêu dùng những thực hành của người trẻ tuổi… Nền văn hoá đương đại không phải là một bề mặt vô nghĩa hay hời hợt mà nó kéo theo sự sáng tạo ý nghĩa tích cực bởi tất cả mọi người với tư cách là những nhà sản xuất văn hoá” [1]. Sự ngập tràn thông tin từ các dạng văn hóa truyền thông, truyền hình giải trí, quảng cáo khuếch trương hình ảnh các tập đoàn đa quốc gia hàng ngày đang tác động đến thói quen hưởng thụ văn hóa và lối sống SV. Hiện nay, sự phát triển của ngành CNVH mang lại nhiều cơ hội để SV tiếp nhận các sản phẩm VHĐC. Nó cũng mang lại những hiệu ích quan trọng trong việc phổ biến VHĐC đến với một đối tượng tiếp nhận đa dạng, năng động và ưa khám phá, sáng tạo như SV. Qua việc tiếp nhận VHĐC, SV đã tích lũy, tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại, biết khát vọng, sống nhân văn hơn và cũng biết trân trọng hơn tinh hoa văn hóa dân tộc. Bài viết phân tích phương thức và các giải pháp nâng cao khả năng tiếp nhận VHĐC của sinh viên Việt Nam hiện nay. 2. Phương thức tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên Việt Nam Ở Việt Nam hiện nay, Internet có vai trò thiết yếu đối với thế hệ 9x,10x. Thế hệ này đã trở thành những con người lớn lên trọn vẹn trong không gian số, hay còn gọi là những “digital native”. Năm 2001, Mark Prensky đã đưa ra khái niệm “digital native” chỉ những người cuộc đời họ vây xung quanh bởi sử dụng máy tính, trò chơi điện tử, nhạc số, video, điện thoại di động và tất cả những vật phẩm sinh ra từ thời đại kỹ thuật số và có vô số cách hành xử khác nhau. Những “digital native” đã phát triển những biểu hiện về mặt tâm lý vô cùng mới so với những thế hệ trước. Công nghệ và truyền thông đang giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động giải trí. “Dường như chẳng có gì có thể kiếm được dễ dàng cho bản sắc dân tộc hoặc tôn giáo, lòng yêu nước. Và bởi vì những điều hấp dẫn này lại được phóng đại lên hoặc được truyền bá bởi một hệ thống các phương tiện truyền thông hoàn hảo nhắm tới một nền VHĐC, cho nên chúng đã gây nên hiệu quả rất dễ nhận thấy” [2, Nhờ sự phát triển của công nghệ, truyền thông, sản phẩm VHĐC trở nên dễ tiếp cận hơn, rẻ hơn, thậm chí nó làm được quá nhiều điều kì diệu giúp con người thoả mãn bất kì giấc mơ giải trí nào. Trong điện ảnh đó là kĩ xảo 3D, 4D, 5D, 6D, giúp con người chinh phục nhiều tác phẩm phim bom tấn đạt độ chính xác cao và chân thật, sống động. Công nghệ cũng giúp ngành công nghiệp thời trang bước sang một trang mới với việc xử lí chất liệu, quảng bá thương hiệu. Trong âm nhạc, ngay cả với những nghệ sĩ đã qua đời cũng vẫn đều đặn kiếm ra tiền. Công nghệ “Hologram” đã dựng lại hình ảnh ba chiều điệu nhảy moonwalk của Micheal Jackson tại lễ trao giải Billboard 2014. Không chỉ làm sống lại những người đã chết, các kế hoạch liên quan đến “Hologram” còn là dựng lại hình ảnh thời trẻ, ví dụ một Madonna ở tuổi 27 trên sân khấu. Và dường như sự phát triển của công nghệ để dành riêng cho đối tượng làm chủ được công nghệ và đam mê khám phá như SV. Truyền thông đại chúng không chỉ có tác động định hướng lối sống mà còn định hướng về hệ giá trị, quan niệm về bản thân, về xã hội, về văn hoá tiêu dùng. Truyền thông đại chúng làm cho các sản phẩm không chỉ có ý nghĩa tiêu dùng, mà còn có ý nghĩa như biểu tượng văn hoá, thông qua chúng, nhân cách cá nhân được khẳng định. Truyền thông đại chúng định hình VHĐC. Tác động của truyền thông đại chúng đến VHĐC là sự nổi lên của “nền văn hoá gắn với công nghệ mới”, mà có thể kể ra các thể loại thành viên của nó như các fan hâm mộ The Beatles, các hippies ở những thập niên 50, 60 của thế kỉ trước, hay những kẻ “nghiện games” “nghiện mạng”, hoặc những cộng đồng “thờ phụng” công nghệ cao… ngày nay. Nhờ sự phát triển của truyền thông, SV tiếp cận VHĐC dễ dàng hơn, tiện ích hơn, cập nhật, đa dạng và rẻ hơn. Phương thức tiếp nhận VHĐC của SV hầu hết là từ Internet và mạng xã hội. SV có nhiều sự chọn lựa VHĐC phù hợp với điều kiện cá nhân. Không những thế, công nghệ và truyền thông giúp SV tương tác, bày tỏ quan điểm cá nhân cũng như có thể đồng thời là những nhà sáng tạo, sản xuất các sản phẩm VHĐC. Sự chủ động, thích khám phá các yếu tố mới lạ là một đặc trưng tiêu biểu của tâm lý SV. Trong bối cảnh hiện nay, SV quan tâm hơn tới những yếu tố mới lạ, trẻ trung của VHĐC. Quá trình tiếp nhận VHĐC ảnh hưởng mạnh đến hành vi ứng xử trong quan hệ bạn bè của SV. Đó là xu hướng rộng mở hơn và có nhiều dấu hiệu về các hình thức kết bạn, tạo dựng mối quan hệ lậu dài. SV thích kết giao để học hỏi, cũng là cách qua đó họ định hướng cho sự phát triển của chính mình. Trong gia đình, trong mối quan hệ với người thân, SV biết cách quan tâm, yêu thương và bộc lộ cảm xúc hơn. SV cho rằng ảnh hưởng tích cực của VHĐC ngoài việc giúp họ thư giãn, giải trí, tái tạo năng lượng cho cuộc sống, còn giúp họ có động lực học ngoại ngữ, giúp họ hoà nhập với bạn bè quốc tế, giúp họ có cơ hội đi du lịch nhiều hơn. Sản phẩm VHĐC cũng giúp SV nhìn cuộc sống nhân văn, nhẹ nhàng hơn, biết trân trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhu cầu của SV thông qua văn hoá giới trẻ để khẳng định vai trò, vị trí của mình trong hệ thống chung của xã hội. Đó là môi trường để họ tìm tòi và định hình hướng đi, lối sống – hay còn gọi là bản sắc – cho riêng mình. Cũng chính vì thế, xã hội cần có cái nhìn cởi mở, rộng lượng hơn, và tôn trọng để giới trẻ được trải nghiệm, hình thành và xác lập thế giới của riêng mình. Trong bối cảnh hội nhập, lại làm chủ được công nghệ, SV có cơ hội trải nghiệm, cọ xát, thẩm thấu với văn hoá bên ngoài là đương nhiên. Cũng từ đó, họ đặt ra yêu cầu khác hơn về quyền được thụ hưởng các sản phẩm văn hoá phù hợp với mình. Đặc biệt, vì tự tìm hiểu mọi thứ trên mạng, nên tuy còn hơi sớm, nhưng đã có thể nhận xét là SV ngày càng giỏi trong việc tự nhận thức về bản thân, tự lực, độc lập, bản lĩnh, thích đổi mới và có mục tiêu rõ ràng. Các phương tiện truyền thông đại chúng mới như điện thoại, Internet đã tạo tiền đề thúc đẩy quá trình cá nhân hoá của SV trong xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở các khía cạnh có vật sở hữu riêng, có thể thể hiện cá tính, tính cách riêng của mình trên những đồ vật, vật dụng ấy, có thể lựa chọn dịch vụ hoặc sản phẩm tuỳ theo mục đích của mình. Không gian mạng xã hội cùng với văn hoá tham gia giúp SV có cơ hội được đóng góp và thể hiện bản thân. Mạng xã hội với văn hoá tham gia giúp nhiều SV kết nối với nhau và tạo ra một cộng đồng gắn bó. Youtube mang đến một không gian văn hoá bình đẳng và tương đối đại chúng, xoá nhoà các ranh giới và khoảng cách. Không chỉ nỗ lực giải quyết các vấn đề cá nhân, SV còn bày tỏ những mối quan tâm với những sự kiện văn hoá, xã hội và chính trị. Nhờ đó, khả năng kết nối, khả năng lan toả của VHĐC ngày càng rộng mở. Công nghệ đã thay đổi cách SV tiếp nhận và nhận thức về thế giới. Sự phát triển của mạng xã hội, cùng các tính năng ngày càng mạnh mẽ của nó, đã hình thành ở SV một tâm thế chủ động và tự tin. SV thích chia sẻ, thích lên tiếng và mong muốn được lắng nghe. Khát khao thể hiện cái tôi thẳng thắn và mãnh liệt, SV không ngần ngại khi thể hiện chính kiến riêng, ngay cả khi đi ngược ý kiến của thế hệ trước, thậm chí tách biệt suy nghĩ số đông. Đặc biệt, việc tiếp cận thông tin trên mạng, SV ngày càng giỏi trong việc tự nhận thức về bản thân, tự lực, thích đổi mới và hướng tới mục tiêu. Họ cũng có nhiều đòi hỏi hơn cho sản phẩm hay dịch vụ. Bìa tạp chí Time số tháng 5/2013 từng đăng hình một thiếu nữ tuổi teen chụp ảnh tự sướng với dòng tiêu đề nổi tiếng và khá shock “Thế hệ của tôi, tôi, chính bản thân tôi”. SV thể hiện khả năng sáng tạo với nhân vật trung tâm là chính mình, chứ không cần thông qua một hình ảnh khác mang tính thông điệp và dấu ấn cá nhân. Chính vì thế, chưa bao giờ, tính chất nghệ thuật lại dự phần vào đời sống thường nhật rộng khắp như hiện nay. Mỗi SV, nếu muốn, đều có thể là một nghệ sĩ, thu hút sự chú ý, lắng nghe và theo dõi…Và đó là lí do sự tiếp nhận VHĐC trở nên vô cùng quan trọng, không chỉ cộng đồng dân tộc mà ở từng cá thể đơn lẻ. Có thể nói, nền tiểu văn hoá tuổi trẻ trên với sự xuất hiện của lớp công chúng mới năng động với những nhu cầu thẩm mĩ mới thực sự mang lại một bức tranh đầy màu sắc cho văn hoá đương đại. Với sự hỗ trợ của truyền thông, công chúng chủ động không chỉ là người thụ hưởng mà còn chủ động sáng tạo ra các sản phẩm văn hoá. Do đó, văn hoá từ chỗ là sản phẩm đặc quyền của tầng lớp tinh hoa, giờ đây hoà trộn trong đời sống thường nhật, với những con người bình thường, nhịp sống bình thường. Đó cũng là cách lan toả tầm ảnh hưởng của VHĐC tới SV một cách nhanh và hiệu quả nhất. Truyền thống dân tộc cùng những tiêu chí của thời đại khiến SV cởi mở hơn nhưng cũng cẩn trọng hơn trong việc tiếp nhận các yếu tố văn hoá bên ngoài, trong đó có VHĐC. Yêu thích khám phá cái mới, cái tiến bộ, nhân văn của thời đại để làm giàu vốn văn hoá dân tộc, vừa nằm trong tâm lý tiếp nhận của SV, vừa nằm trong xu thế chung của thời đại. Tuy vậy, những ma trận các sản phẩm VHĐC với sự hậu thuẫn của truyền thông cũng mang lại nhiều hệ luỵ. Đó là sự lệ thuộc vào truyền thông, bị truyền thông dẫn dắt. Nó dẫn đến một bộ phận SV tiếp nhận thụ động, dễ adua, bắt chước, sống với các giá trị ảo, thậm chí, ảnh hưởng không nhỏ tới hành vi và đạo đức của họ. Tình trạng phạm tội ngày càng trẻ và manh động hơn, xu hướng sống thực dụng, chạy theo vật chất, ích kỉ cá nhân đang ngày càng nhiều. 3. Giải pháp nâng cao khả năng tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên Giáo dục gia đình Hãy bắt đầu từ sự giáo dục trong gia đình, cái nôi văn hoá đầu tiên của SV. Gia đình có tác dụng giáo dục văn hoá, bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống. Vì thế, người ta thường ví gia đình là trường học đầu tiên và người mẹ là người thầy đầu tiên của đời người. Sự hình thành những chuẩn mực giá trị văn hoá tốt đẹp của gia đình không chỉ củng cố các mối quan hệ gia đình, mà còn tạo tiền đề quan trọng để mỗi cá nhân tiếp tục hoàn thiện giá trị nhân cách khi hoà nhập vào môi trường xã hội. Văn hoá gia đình chính là cái nôi, nơi tạo lập và tiếp thu văn hoá. “…mối liên kết giữa các thành viên trong gia đình giữ vai trò quan trọng đối với việc tiếp thu và sử dụng các thông điệp từ hệ thống truyền thông đại chúng vì những nhu cầu và lợi ích của họ. Họ có thái độ phê phán, nhiều khi gay gắt đối với việc quảng bá bạo lực và việc lạm dụng hình ảnh phụ nữ, trẻ em trong các chương trình phim, quảng cáo… vì mục đích thương mại. Điều ấy có nghĩa rằng, truyền thống văn hoá gia đình, nền tảng của gia phong rất có ý nghĩa trong tương tác giữa VHĐC và văn hoá gia đình” [6]. Có thể coi truyền thống văn hoá gia đình là một bộ phận hợp thành nền văn hoá dân tộc, với hệ thống những giá trị, chuẩn mực điều chỉnh hành vi và điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Do đó, ông bà, cha mẹ phải làm gương cho con cháu về văn hoá, về đạo đức. Người Việt đã đúc kết “giỏ nhà ai, quai nhà nấy”, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, như một quy luật, một triết lý giáo dục văn hoá, đạo đức trong gia đình. Có thể nói, xã hội hiện đại với sự phân hoá lao động cao đã dẫn đến tình trạng nhiều phụ huynh phó mặc giáo dục con cái cho nhà trường. Kinh tế thị trường và sự tự do cạnh tranh lợi nhuận đã có thể đưa con người vượt ra ngoài những sự kìm toả của gia đình để tìm thấy một thứ hạnh phúc khác gắn liền với các điều kiện vật chất, sự sang giàu về tiền bạc, sự xoá bỏ các ràng buộc về huyết thống, thế hệ và giới tính… Do đó, cần phát huy sức mạnh của gia đình bởi chỉ khi được nuôi dưỡng trong một bầu không khí được tiếp nhận sức sống mãnh liệt của các giá trị truyền thống thì khi lớn lên, đến lượt mình, chính SV mới có đủ năng lực để tiếp tục lưu giữ và phát huy những giá trị đó cho thế hệ mai sau. Đồng thời, các bậc phụ huynh cũng cần cố gắng cập nhật về công nghệ, những xu hướng mới trong xã hội để có sự định hướng tốt hoặc đồng hành cùng con em, hướng họ đến những yếu tố tích cực, hiện đại, lên án phê phán những yếu tố tiêu cực. Tương lai không xa, việc SV xa lạ, đứt gãy với các giá trị truyền thống dân tộc không còn là nguy cơ. Do đó, xây dựng văn hoá gia đình trở nên vô cùng cần thiết để nâng cao hiệu quả giáo dục cho giới trẻ. Xây dựng môi trường văn hóa trong các trường đại học Nhà trường là nơi con người với con người thầy và trò cùng hoạt động chiếm lĩnh các mục tiêu văn hóa, theo những cách thức văn hóa, dựa trên những phương tiện văn hóa trong những môi trường văn hóa đặc thù. Nhà trường là nơi bảo tồn và lưu truyền các giá trị văn hóa nhân loại. Nhà trường cũng là nơi đào tạo, rèn luyện những lớp người mới – chủ nhân gìn giữ, sáng tạo văn hóa cho tương lai. Văn hóa học đường là môi trường để giáo dục và rèn luyện nhân cách con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nếu môi trường học đường bị xuống cấp thì nhà trường không thực hiện được chức năng truyền tải tri thức, các giá trị, chuNn mực văn hóa đến thế hệ trẻ. Thực tế, nhiều trường đại học chưa quan tâm xây dựng văn hóa học đường, vì vậy những hành vi lệch chuẩn trong trường học có cơ hội phát sinh, nảy nở, trong đó có bạo lực học đường đang là vấn đề quan tâm của ngành giáo dục và của toàn xã hội. Không chỉ hướng SV đến các giá trị đạo đức, nhà trường, bên cạnh việc đào tạo nghề, còn cần có các kế hoạch cụ thể trang bị các kiến thức nền tảng về văn hoá nghệ thuật cho SV. Phải chăng sự thờ ơ hôm nay của một bộ phận không nhỏ giới trẻ đối với nghệ thuật dân tộc chính là sự phản chiếu thờ ơ của hệ thống giáo dục đối với việc bồi đắp, định hướng giá trị thẩm mỹ; giáo dục đạo đức; chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho giới trẻ? Điều quan trọng hơn cả, hãy để tình yêu văn hoá dân tộc tự nó thấm vào hồn các thế hệ, đặc biệt là giới trẻ. Hãy để SV yêu nó theo cách của mình bởi đâu phải cứ luôn ồn ào, luôn nói yêu mới thực là yêu. Trách nhiệm của nhà trường là phải quảng bá, truyền đạt làm sao để họ cũng yêu mến âm nhạc dân tộc như thế và hơn thế; để âm nhạc dân tộc sống và chảy trong huyết quản của họ như tình yêu với tổ tiên, quê hương, nguồn cội; để sau tất cả những cái mới, những ồn ào, họ luôn muốn tìm về sự bình yên, sâu lắng nhất của tâm hồn. Nên tạo sân chơi cho SV có nhiều sự tiếp xúc với nghệ thuật truyền thống. Khi khán giả đến với một loại hình nghệ thuật phải bắt nguồn từ sự yêu mến, luyến nhớ và có thể tìm về ký ức của mình. Hãy làm cho họ chú ý dần dần để họ đến một lúc nào đó, đủ độ trải nghiệm, họ sẽ thích thay vì bằng các biện pháp tuyên truyền, thuyết giảng giáo điều. Văn hóa nhà trường phải bắt đầu từ các cấp quản lý, lãnh đạo các trường học; sau đó đội ngũ nhà giáo cần coi giáo dục văn hóa là nhân tố quan trọng, từ đó chú trọng hình thành và phát triển nhân cách văn hóa cho học sinh, góp phần thực hiện phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Vai trò của các đoàn, hội cần được phát huy mạnh mẽ hơn nữa không chỉ mang tính phong trào mà cần đi vào chiều sâu, bài bản, lớp lang bởi văn hoá là thứ thẩm thấu, chuyển hoá dần chứ không thể hô hào cổ động là xong. Bên cạnh việc tổ chức các sân chơi văn hoá văn nghệ lành mạnh để SV được sáng tạo, cần có các sinh hoạt chuyên đề về văn hoá như việc mời các diễn giả, các nhà phê bình văn hoá nghệ thuật để tăng vốn hiểu biết về mỹ học cho SV. Quản lý văn hóa Có thể nói, SV ngày nay có nhiều cơ hội tiếp cận, hưởng thụ VHĐC nhưng cũng nảy sinh nhiều hệ luỵ từ việc VHĐC ồ ạt xuất hiện trên mọi diễn đàn, mọi phương diện sống. Người ta cố gắng lí giải điều đó, nhưng có thể quy về 3 nguyên nhân 1 sự xuất hiện xã hội tiêu dùng dẫn đến cuộc đua về tiêu dung; 2 sự ra đời xã hội giải trí dẫn đến cuộc đua thoả mãn cảm xúc vui vẻ, giải trí; 3 sự phát triển nhanh của xã hội truyền thông với cuộc chạy đua về kết nối bạn bè, cộng đồng cùng sở thích, cùng đam mê. Tuy nhiên, bên cạnh đó, xã hội hiện đại đem đến những lo âu và bấp bênh khi những đổi thay ồ ạt đang diễn ra trên toàn thế giới, bao gồm trong nó cả sự mơ hồ do không hề có những chuẩn mực nhất định nào cho những thay đổi này. Đây là những khó khăn mà thế hệ trẻ phải đối mặt trong quá trình xây dựng bản sắc cho riêng mình, những bản sắc đang trong giai đoạn định hình, vụn vặt, rời rạc, thậm chí chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Quá trình này đòi hỏi SV phải luôn tỉnh táo, độc lập, làm chủ được những mối quan hệ cũng như tương lai của bản thân. SV ngày nay dường như phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Những định kiến dựa vào văn hoá truyền thống do vậy sẽ chỉ làm tăng thêm nơi họ sự mơ hồ vốn có. Văn hoá giới trẻ là một thực tế xã hội cần được công nhận. SV rất năng động và luôn nỗ lực hết sức để khẳng định mình. Xã hội cần khuyến khích điều đó cũng như đồng hành, chấp nhận những thách thức cùng họ. Sự cởi mở, tôn trọng, khách quan là rất cần thiết trong việc hỗ trợ thế hệ trẻ chọn lựa hướng đi trong tương lai. Để nâng cao khả năng tiếp nhận VHĐC của SV, các cơ quan quản lý văn hoá cần thực sự quan tâm tới việc đề ra các thiết chế cho SV 1 tạo cho SV các không gian vui chơi giải trí lành mạnh. Hiện nay, không gian phục vụ việc vui chơi, giải trí dành riêng cho SV còn thiếu và yếu, nhất là không gian ngoài trời. Cần có sự nhận thức đầy đủ và kịp thời của các cấp chính quyền về việc định hướng sự tiếp nhận VHĐC cho SV quan các hoạt động tuyên truyền, định hướng, tạo cho SV không gian sáng tạo để SV có bản lĩnh, có năng lực tiếp nhận các sản phẩm VHĐC có chất lượng, loại bỏ những sản phẩm yếu kém, phản văn hoá. Có thể tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ tại địa bàn cư trú để tạo sân chơi lành mạnh, tăng cường giao lưu, kết nối thế hệ cho SV, thông qua đó lồng ghép các thông điệp, các giá trị văn hoá; 2 xiết chặt công tác quản lý, xét duyệt các sản phẩm VHĐC từ bên ngoài. Thực tế, nhiều sản phẩm được nhập lậu với nội dung phản văn hoá vẫn tràn lan trên thị trường, vô tư xuất hiện trên giảng đường, cantin, kí túc xá, phòng trọ… Đặc biệt, vấn đề quản lý các sản phẩm văn hoá trên truyền thông cần phải làm một cách bài bản, mạnh tay bởi đây là môi trường tiềm ẩn nhiều nguy cơ không lành mạnh nhất đến SV. Không nên phó thác việc giáo dục SV cho nhà trường hoặc các hoạt động vui chơi của họ cho các hội, đoàn. SV đã là công dân, họ có quyền lợi và trách nhiệm ngang nhau với các đối tượng khác trong xã hội. Do đó, các cấp, các ngành, các nhà quản lý văn hoá cần quan tâm hơn nữa tới SV thay vì trông cậy vào sự giáo dục của nhà trường và các đoàn, hội; 3 truyền thông cần đưa nhiều gương người tốt việc tốt, cần có những tấm gương SV truyền cảm hứng cho cộng đồng. Bên cạnh đó, các bình luận của các chuyên gia văn hoá, nghệ thuật cần được đưa tới gần hơn với SV bằng những cách dễ tiếp nhận nhất như lồng ghép trong các buổi ngoại khoá, tập huấn hoặc các mà trình diễn của SV. Tự giáo dục của sinh viên Muốn xây dựng con người có tri thức, có văn hoá thì quan trọng nhất là việc chính con người tự giáo dục. Nhà trường hay gia đình chỉ đóng vai trò định hướng, hỗ trợ sự phát triển mỗi cá nhân. Cái gốc của trí tuệ vẫn là do con người tự nhận thức, tự khai sáng và tự lĩnh hội. Khi SV tự nhận thức được suy nghĩ của mình là đúng hay sai thì sẽ dẫn đến hành động và lời nói tuân theo sự đúng – sai của tư duy ấy. Từ đó mới hình thành nên thế hệ SV nhân văn, sống trách nhiệm và sáng tạo. SV cần chủ động học cho mình, vì tri thức, kỹ năng và những ứng xử cần thiết trong nghề nghiệp sau này, học để suy nghĩ, tìm tòi và tự xác định những giá trị có thể sống chết vì nó, chứ không thụ động “làm theo thiên hạ” hay theo sắp đặt của mẹ cha với tâm lý ỷ lại… Là thể hiện khí phách tuổi hai mươi, “giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha” thay vì đổ thừa thế hệ đi trước về mọi điều mình chưa làm được… Nếu SV tự chủ, tự giáo dục mình thành người công dân có trách nhiệm, thì việc nâng cao năng lực thẩm mỹ để tiếp nhận VHĐC sẽ mang lại hiệu quả. Giáo dục, như ý nghĩa ngàn đời giản dị của nó, trước hết là tự giáo dục, để nên người. Ở thời đại trình độ nhận thức đã có bước phát triển cao, tiếp nhận – biến đổi văn hóa cũng không còn ở trong tình trạng tự phát mà đã trở thành hành vi tự ý thức của con người, trở thành xu thế tất yếu đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa của mọi dân tộc. Do vậy, việc xử lý các vấn đề liên quan tiếp nhận – biến đổi văn hóa cũng cần phải được quy chiếu từ nhãn quan của hành vi tự ý thức, phải trở thành bộ phận của một hoạch định văn hóa có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Như vậy, nếu các cơ quan tổ chức, lãnh đạo văn hóa có vai trò quan trọng về mặt xã hội, thì mỗi SV cũng giữ vai trò không kém, bởi con người chính là chủ nhân của văn hóa, là chủ thể của mọi sáng tạo văn hóa và do đó, xây dựng văn hóa phải bắt đầu từ xây dựng con người văn hóa. Bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, SV đứng trước nhiều lựa chọn để thỏa mãn đời sống tinh thần và xác lập hệ giá trị cho riêng mình. Do đó, bản thân SV phải tích cực, chủ động trau dồi tri thức, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của mình để thông qua việc tiếp nhận VHĐC, hoàn thiện nhân cách, gìn giữ được vốn văn hóa dân tộc và hội nhập sâu rộng với bạn bè quốc tế. 4. Kết luận VHĐC đã trở thành nhịp sống quen thuộc, gần gũi của SV trong bối cảnh hội nhập quốc tế. SV đã chủ động tiếp nhận các yếu tố mới lạ, hấp dẫn của VHĐC để khẳng định cái tôi, khẳng định bản ngã. Trong việc định hình phong cách, xác lập giá trị riêng của SV, VHĐC can dự phần lớn vào việc ấy. Nó giúp SV hoàn thiện nhân cách, chuẩn bị hành trang lập nghiệp. Tiếp nhận VHĐC của SV có nhiều thuận lợi bởi mức độ đậm đặc các sản phNm VHĐC vây quanh cuộc sống của họ, nhưng kèm theo đó cũng có vô số thách thức khi họ bị lạc lối giữa mê cung của chính những sản phẩm tốt – xấu lẫn lộn. Chính vì thế, nhà trường, gia đình, xã hội cần quan tâm, định hướng cho SV để họ nhận thức được ngay cả trong việc giải trí, cũng phải chọn lọc những sản phẩm lành mạnh, phù hợp để nâng cao năng lực thẩm mỹ, góp phần lành mạnh hoá lối sống cho SV. Đồng thời, chính bản thân SV cũng phải ý thức tự trau dồi vốn văn hoá để nâng cao khả năng tiếp nhận VHĐC. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Clotaire Rapaille 2017, Mật mã văn hoá, Nxb Lao động, Hà Nội. [2] Edward Wadie Said 2015 Văn hoá và Chủ nghĩa bá quyền, Nxb Tri thức, Hà Nội. [3] Đặng Cảnh Khanh 2006, Xã hội học thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [4] Nguyễn Văn Kim Chủ biên 2017, Tiếp biến và hội nhập văn hoá ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. [5] Nguyễn Trường Lịch 2012, “Giao lưu và tiếp nhận văn hóa thời hội nhập”, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, 205, 2. [6] Mai Quỳnh Nam 2000, “Văn hóa đại chúng và văn hóa gia đình”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 72. [7] Hữu Ngọc 2015, Hồ sơ văn hoá Mỹ, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Nguồn Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 – 2019 Ban Tu Thư
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM Thị NếtPhạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy NgânNguyễn Kim NgânVũ Thảo NgânVũ Thị Minh NgânNguyễn Thị NgọcNguyễn Thị NguyệtNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânMỤC LỤCPHẦN 1 LỜI MỞ cấp thiết của đề tượng nghiên cứuNội dung nghiên cứuMục đích nghiên pháp nghiên cứuCái mới của đề tàiKết cấu của đề tàiPHẦN II NỘI 1 Tổng luận về vấn đề nghiên Khái niệm văn Khái niệm văn hóa ứng Sự thể hiện của văn hóa ứng xử qua các mối quan hệChương 2 Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện Thực trạng Một vài biểu hiện tiêu biểu của sinh viêna Bệnh vô cảmb Sinh viên trong giờ họcChương 3 Giải phápPHẦN 3 KẾT LUẬNPHẦN 1 LỜI MỞ cấp thiết của đề tàiTrong những năm gần đây, xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độchóng mặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập thế mà xã hội ngày càng phát triển, bên cạnh đó lối sống của nhiều người cũngđang dần thay đổi. Đặc biệt, một vấn đề luôn được quan tâm đến đó là văn hóa ứngxử trong thời đại ngày hóa ứng xử là một yếu tố quan trọng, được coi là một tiêu chuẩn để rènluyện, đánh giá nhân cách, đạo đức của một con người. Văn hóa ứng xử giúp conngười sống biết đối nhân xử thế, biết giao tiếp lễ độ, có ước mơ hoài bão, có lýtưởng tốt đẹp. Xã hội càng văn minh, nhu cầu về vă hóa ứng xử ngày càng cao,ứng xử một cách thông minh khôn khéo, tế nhị đạt tới mức độ nghệ thuật lại cànglà vấn đề khó, đây cũng là một thành công trong bí quyết sống hàng với tầng lớp sinh viên, một tầng lớp trẻ, khỏe, đầy năng động và nhiệt huyếtthì văn hóa ứng xử lại là yếu tố cần thiết để nâng cao kinh nghiệm sống hàng ngàycho tầng lớp này. Đây là một đề tài mặc dù không còn mới mẻ đối với chúng tanhưng sức ảnh hưởng cũng như tầm quan trọng của nó hiện nay thì không thể phủnhận được. Xu hướng hội nhập đã làm thay đổi ứng xử văn hóa của sinh viên ViệtNam. Phần lớn sự thay đổi này đều đi theo hướng tích cực sinh viên đã biết sốngcó chuẩn mực, biết nâng cao và hoàn thiện bản thân mỗi ngày. Tuy nhiên, bên cạnhđó một số sinh viên lại đi nhận thức sai về quan điểm hội nhập, sống sa ngã, ứngxử văn hóa kém cỏi, giao tiếp trong học đường và xã hội một cách bồng bột, thiếuhiểu biết. Vậy, thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện nay như thếnào? Hãy cùng nhóm 8 tìm hiểu và giải đáp những vấn đè thắc mắc về vấn đề tượng nghiên cứuSinh viên Việt Nam đang theo học ở trong các trường ĐH, dung nghiên cứu Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên mặt tốt và mặt xấu trong văn hóa ứng xửcủa sinh viên trong môi trường học đích nghiên cứuĐến với đề tài này, nhóm 8 sẽ giúp các bạn giải đáp thắc mắc, hiểu được thế nàolà ứng xử văn hóa, biết được các mối quan hệ của văn hóa, thấy rõ được thực trạngvăn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện nay cũng như tìm ra các giải pháp, đềxuất để nâng cao văn hóa ứng xử của sinh việc khảo sát thực tế và tìm hiểu qua mạng Internet, nhóm 8 đã nhận ra đượcnhiều thú vị, đáng để học hỏi từ ứng xử văn hóa. Đề tài này đã giúp nhóm nângcao, rút ra được nhiều bài học và có kinh nghiệm hơn về ứng xử văn hóa hàng ngàytrong đời sống thực tiễn của chính mình. Từ đó, nhóm đã đưa ra nhiều đóng gópnhằm hoàn thiện hơn về đề tài hay chính là vấn đề văn hóa đang rất nóng của pháp nghiên cứu- Phương pháp nghiên cứu định tính- Phương pháp phân tích tổng hợp- Phương pháp khảo sát thực mới của đề tàiĐối với đề tài nghiên cứu của nhóm, nhóm đã nghiên cứu một cách tổng thể vềthực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam, đặc biệt là nêu ra các biểu hiệncụ thể của sinh viên trong các giờ học trên giảng đường, từ đó dễ dàng đưa ra đượcgiải pháp đúng đắn đối với các hiện tượng Kết cấu của đề tàiBài thảo luận được nhóm chia làm 3 chươngChương 1 Tổng luận về vấn đề nghiên cứu các khái niệm về văn hóa, văn hóaứng xử và hình thức biểu hiện của nóChương 2 Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện nayChương 3 Giải pháp, kiến nghị, đề xuấtPHẦN 2 NỘI DUNGLời mở đầuChương 1 Tổng luận về đề tài nghiên Khái niệm văn hóa- Văn hóa là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã Văn hóa là 1 hệ thống bao gồm các giá trị, các cơ cấu, kỹ thuật, các thể chế tưtưởng… được hình thành trong quá trình hoạt động tồn tại và phát triển vủa conngười, được bảo tồn và truyền từ thế hệ này qua thế hệ Hệ thống văn hóa có chức năng như là một khuôn mẫu chuẩn mực các hành vi lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triểntrong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham giavào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa đượctruyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóađược tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của conngười. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiệntrong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng nhưtrong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo Khái niệm văn hóa ứng xửỨng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tácđộng của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện quathái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trongmối quan hệ giữa con người với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì bản chấtcủa ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua tháiđộ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người chung hóa ứng xử được hiểu là dùng thái độ, cử chi, hành vi của con người tronggiao tiếp đời sống với những người và môi trường xung vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con người,được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con người đối vớibản thân, với những người chung quanh, trong công việc và môi trường hoạt độnghằng Sự thể hiện của văn hóa ứng xử qua các mối quan hệHành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗicá nhân Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người chung quanh, tronghọc tập, công tác, với bạn bè và thậm chí ngay cả với chính bản thân mình. Conngười chúng ta sống giữa các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Các mối quanhệ này có ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển nhâncách và xu hướng hành động của họ. Chính cuộc sống đòi hỏi mỗi người phải cócách xử thế đúng đắn, thể hiện qua phép lịch sự trong quá trình giao tiếp với cácđối tác khác nhau. Cách xử thế của mỗi cá nhân trong sự giao tiếp xã hội, được gắnvới nền văn minh của từng thời đại và đặc điểm văn hoá của từng dân tộc, khu vựcdân cư. Các biểu hiện của cách ứng xử mang tính dân tộc, tính giai cấp, giới tính,tuổi tác... Nó chịu ảnh hưởng của nghề nghiệp, địa vị xã hội và cũng mang đặcđiểm cá tính của mỗi con người. Phép lịch sự trong việc ứng xử chính là một sựtổng hợp các nghi thức được biểu hiện ra trong cách giao tiếp, nhưng không phải lànhững ứng xử một cách máy móc mà là những việc làm, lời ăn tiếng nói linh hoạt,nhiều vẻ, gắn với từng hoàn cảnh, từng môi trường cụ thể và tuỳ theo đối tác gặpgỡ. Ví dụ Khi gặp gỡ người quen, ta chào, chứng tỏ ta đã nhận ra họ, kèm theo lờichào có thể là bắt tay, mỉm cười…Lời chào hỏi, liên quan đến những quy ước nhấtđịnh, chịu ảnh hưởng của những đặc điểm văn hoá dân tộc, vùng miền. Mục đíchvà ý nghĩa của lời chào hỏi chính là ta tự đặt mình trong mối quan hệ của cách xửthế đã được quy định và được xã hội chấp nhận. Khi muốn thiết lập mối quan hệgiữa những người mới gặp, thì lời giới thiệu của người thứ ba là rất cần thiết. Phéplịch sự dạy chúng ta tôn trọng người khác đó chính là một nghệ thuật sống tế trọng người tiếp xúc với mình chính là ta đang tôn trọng chính bản thân thời buổi cơ chế thị trường hiện nay, cuộc sống ngoài xã hội diễn ra vô cùngphức tạp, đa dạng, những lời khuyên về những hành động ứng xử có văn hóa quảthật là khó đối với một số bạn trẻ hiện nay, nói thế nhưng không có nghĩa là thế hệtrẻ hiện nay không quan tâm tới việc ứng xử có văn hóa, mà do áp lực của học tập,công việc nên đôi khi họ chưa chú trọng tới việc ứng xử với nhau có tế nhị và cóvăn hóa. Để có thể tiếp xúc trò chuyện với người khác một cách thoải mái thì bảnthân chúng ta phải biết thích ứng với những gì đang diễn ra xung quanh mình. Sựcân bằng tình cảm đó sẽ đem lại cho ta một cảm giác thoải mái, tin tưởng trong sựgiao ứng xử, và ứng xử có tế nhị là không nên làm phiền người khác, không đisâu vào đời tư của họ, biết giữ một khoảng cách tình cảm giữa mình với người tiếpxúc, đặc biệt khi mới gặp, không nên kể chuyện đời tư của mình một cách dễ đãi,không mời đến nhà những người ít quen đời sống sinh viên, văn hóa ứng xử được thể hiện khá đa dạng. Văn hóa ứngxử được thể hiện chính trong nhà trường và công cộng . Đó chính là cách ăn mặc,nghe, nói, đi đứng, thái độ, phong thái… của sinh viên với đối với hoàn cảnh vàđối tượng xung quanh. Đó là tổng hòa của cách ứng xử với bạn bè, thầy cô và cácmối quan hệ khác trong xã tiên là hình thức, đó là cách ăn mặc đầu tóc, cần phù hợp với hoàn cảnh. Khiđi học trang phục chỉ cần thoải mái, lịch sự; đi chơi trang phục có thể cầu kì, chảichuốt hơn nhưng cũng có chừng mực để không gây ra sự phản cảm, quá lố. Thứhai chính là cách giao tiếp ứng xử với mọi người trong nhà trường và ngoài xã người đều cần được tôn trọng trong mọi trường hợp và thái độ, hành động, lờinói cần có chừng mực và phù hợp hoàn cảnh. Ví dụ, với giáo viên, là người bạnquen ngoài xã hội nhưng trong giờ học vẫn cần có thái độ cư xử đúng mực. Thứ bachính là phong thái, tác phong. Đó chính là dáng dấp đi lại hay bất kể cử động nàocủa bạn. Sau hình thức, nó chính là thứ tiếp theo gây ấn tượng với người xungquanh trước khi bạn giao tiếp với họ. Một phong thái tự tin với dáng đi chắc chắn,lưng thẳng, ngẩng cao đầu chắc hẳn sẽ gây được nhiều thiện cảm và tin cậy cùng chính là cách ứng xử của sinh viên với môi trường và cộng đồng. Điềuđó được thể hiện qua những việc rất nhỏ như không xả rác linh tinh, chen lấn, dẫmlên cỏ để đi đường tắt…Nếu có cách đối nhân xử thế đúng đắn, có phép lịch sự trong giao tiếp thì người tasẽ có nhận thức đúng đắn về đạo đức tư cách lối sống của mình. Điều này giúpchúng ta ngày càng trưởng thành lên và có kinh nghiệm sống ngày càng 2. Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện Thực trạng chungTrong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóngmặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập vào. Vì thếmà xã hội ngày càng phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay đổi về tưtưởng về lối sống của nhiều người. Đặc biệt ở đây, một vấn đề rất được quan tâm làvăn hóa ứng xử của sinh viên ngày nay trong môi trường học tập và xã nay, số lượng sinh viên đại học ngày càng tăng. Với lứa tuổi đôi mươi, phongcách sống trẻ trung, năng động, có hiểu biết, các em đã góp phần làm đẹp cho xãhội. Những hành động cao cả, đầy nghĩa khí của sinh viên như quên mình cứungười, giúp đỡ, quan tâm, động viên những bạn sinh viên có hoàn cảnh khó khăn,kính trọng thầy cô giáo, biết thương yêu cha mẹ, anh chị em, có thái độ phản khángvới những ứng xử không đẹp mắt của bạn bè và những người khác đang ngày càngđược xã hội ghi thực trạng văn hoá học đường ngày nay như thế nào? Phần lớn thế hệ trẻ trongnhà trường hiện nay có kiến thức rất rộng, nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin cósức khoẻ tốt, tinh thần cầu thị trong học tập, khả năng ứng dụng những kiến thứchọc vào thực tiễn cao, quý trọng thầy cô, đoàn kết với bạn bè sống có kỷ cương,không ngừng phấn đấu vươn nên trong học tập và trong cuộc cạnh đó, trong sinh viên vẫn tồn tại không ít những kiểu ứng xử không phùhợp với truyền thống văn hóa dân tộc, vụng về, thiếu tinh tế. Bên cạnh một số sinhviên có ý thức học tập tốt, nghiêm túc trong các kỳ thi thì vẫn còn những sinh viênmải mê với đánh bài ăn tiền, chơi số đề, uống rượu rồi quấy phá làm mất trật kỳ thi thì chuẩn bị tài liệu phô tô thu nhỏ để đưa vào phòng thi sử dụng hoặcchép bài của bạn. Nếu thầy, cô giáo coi thi nghiêm túc nhắc nhở thì vừa ra khỏiphòng thi đã dùng những từ không mấy tốt đẹp. Thử hỏi rằng những sinh viên nhưvậy làm sao có thể trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để sau này tự tinbước vào đời. Truyền thống của dân tộc Việt Nam là “tôn sư trọng đạo”, “nhất tự visư, bán tự vi sư” thì những truyền thống đó đang bị cơ chế thị trường làm mai số sinh viên gặp thầy, cô giáo đã giảng dạy mình cũng không chào hỏi. Khikhông có mặt thầy, cô giáo thì dùng những từ thiếu tôn kính. Tuy nhiên, thực trạngnày có nguyên nhân từ cả phía sinh viên và thầy cô giáo. Nhưng dù như thế nào thìsinh viên vẫn phải thực hiện tốt bổn phận của mình trong giao tiếp, ứng xử vớithầy, cô giáo và mọi xử của sinh viên với bạn bè cũng là một nội dung quan trọng trong văn hóahọc đường. Sinh viên thường có tinh thần nghĩa hiệp. Khi bạn bè gặp khó khăn sẵnsàng chia sẻ, động viên. Một lời cảm ơn, xin lỗi nhẹ nhàng chân thành có thể để lạiấn tượng tốt, có thể giải tỏa được những vướng mắc tạo nên mâu thuẫn không đángcó. Nhưng một số sinh viên thường có thái độ quá khích, thiếu bình tĩnh khi bạn bèlàm mình không hài lòng. Vì vậy, chỉ một cái nhìn “không bình thường”, chỉ mộtva chạm nhẹ, một mâu thuẫn nhỏ là có thể có những lời nói thô tục, khiếm nhã,thậm chí gây gổ, đánh xử của sinh viên trong các cuộc họp, hội nghị, trong lớp học, trong các buổimít tinh cũng là một vấn đề cần bàn. Trong lớp học, một số sinh viên nói chuyệnriêng, gây ồn ào ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài của cả lớp và giảng bài của thầycô giáo. Một số sinh viên sử dụng điện thoại di động để truy cập mạng hoặc chơitrò chơi trong giờ học. Có những sinh viên ngủ trong lớp, khi giảng viên hỏi về bàihọc mới đứng dậy ngơ ngác hoặc bỏ giờ ra quán ngồi. Trong buổi họp, mít tinhngười nào lên phát biểu cứ phát biểu còn sinh viên cứ nói chuyện rào rào, khi diễngiải phát biểu xong cũng không vỗ tay tán thưởng. Xem biểu diễn văn nghệ khi kếtthúc tiết mục cũng chỉ vỗ tay lẹt đẹt để cổ vũ. Trong buổi lễ tổng kết, đến chươngtrình khen thưởng, nhìn lại chỉ còn một nửa sinh viên trong hội xử của sinh viên trên facebook có những biểu hiện không tốt. Một số sinhviên sử dụng những từ lóng, khó hiểu. Có những sinh viên bất cứ chuyện gì cũngđưa lên facebook trình làng, kể cả chuyện tế nhị. Trong gia đình, một số sinh viênhầu như không có thói quen đi thưa, về chào, cãi lại bố mẹ, ông bà với thái độ hỗnláo, chi tiêu quá mức so với hoàn cảnh gia đình gây nợ nần…Một bộ phận nhỏ sinh viên có biểu hiện của lối sống thực dụng, phủ nhận nhữnggiá trị đạo đức truyền thống, vi phạm Luật Giao thông, vi phạm giờ giấc làm việc,học tập, ứng xử chưa đúng với môi trường sư phạm, làm ảnh hưởng đến văn hóaứng xử trong nhà trường.* Nguyên nhânCó nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong ứng xử của sinh Trước hết là do nhà trường chưa chú trọng vấn đề này trong đào tạo, bồi trường chủ yếu chú trọng dạy chữ, chưa thực sự xem trọng việc dạy người,trong đó có vấn đề trang bị cho sinh viên kỹ năng mềm nói chung và kỹ năng giaotiếp ứng xử nói Đoàn thanh niên nhà trường chưa chú trọng đẩy mạnh sinh hoạt văn hóa trongsinh viên, chưa định hướng cho sinh viên trong ứng Một số gia đình chưa chú trọng giáo dục ứng xử cho con cái từ khi còn nhỏ, nêndẫn đến thói quen nói trống không, nói bốp chát, sống tùy tiện, cẩu thả, bừa bộn vàcoi đó là điều bình Nền kinh tế thị trường cũng tác động không nhỏ đến hành vi ứng xử của sinhviên. Kinh tế thị trường coi trọng đồng tiền, lấy đồng tiền làm động lực. Điều đódẫn đến không ít người bất chấp tất cả vì đồng tiền đối xử lạnh lùng, tàn nhẫn vớingười khác, vì đồng tiền có những người tính toán chi li, đưa lên bàn cân điều cólợi và không có lợi, sống thực dụng, có lợi thì mới quan hệ. Điều đó tác độngkhông nhỏ đến ứng xử của sinh Một số sinh viên thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí rèn luyện, thiếu chín chắn, không đủkhả năng vượt qua những cám dỗ của đời thường. Thêm vào đó cuộc sống có nhiềumối quan hệ phức tạp làm cho sinh viên lúng túng, ngỡ ngàng, không xác địnhđược đâu là chuẩn mực đúng, đâu là sai trái cần tránh. Đặc điểm văn hóa vùngmiền cũng tạo nên ứng xử khác nhau của sinh Về phía giảng viên, có một số giảng viên chưa thực sự gương mẫu, chuẩn mựctrong giao tiếp, ứng xử, bài giảng thiếu hấp dẫn làm cho sinh viên thiếu sự tôntrọng, nhàm chán, dẫn đến những sai lầm trong ứng Một vài biểu hiện tiêu biểu của sinh viêna Bệnh vô cảmVô cảm thật ra không còn chỉ một trạng thái về tinh thần của con người nữa mà trởthành một căn bệnh đáng lo ngại, thường gặp ở nhiều bạn trẻ hiện nay. Càng đi sâuvào vòng xoáy cuộc sống hiện đại, dường như vô cảm trở thành một căn bệnh nany khó nhân dẫn đến căn bệnh khó chữa này bắt nguồn từ chữ “Sợ” Sợ liên lụy,sợ chuốc họa vào thân, sợ gặp phải phiền phức v…v… đã khiến cho mọi ngườixung quanh nhất là giới trẻ hiện nay trở nên vô cảm. Họ không còn quan tâm hoặcthích thú với những hoạt động, những sự kiện trong đại, những vấn đề quan trọngcủa cộng đồng, của xã hội, của đất nước. Vì đơn giản họ chỉ muốn được sống choriêng bản thân mình, cho lợi ích của mình, không phải lo âu về những phiền toáicủa người nhân thứ hai dẫn đến căn bệnh vô cảm này chính là sự kích động tinh thầncủa thế hệ trẻ khi xem phim hành động hay chơi game – trò chơi bạo lực đã làmcho con người trở nên sắt đá, tính tình nguội lạnh, chẳng còn cảm giác hay suynghĩ gì về những điều xung quanh mìnhCác bạn có thể dễ dàng nhận thấy ngày nay khi ra đường nếu không may gặp phảicướp giật mà có la thật to, thật lớn kêu cướp thì mọi người xung quanh cũng chỉđứng nhìn và ít khi nào có một “hiệp sĩ đường phố” đứng ra bắt cướp và giúp đỡbạn. Cũng có những trường hợp té xe hay tai nạn trên đường mọi người đi đườngxung quanh nhìn thấy, họ ngoái đầu nhìn, họ chỉ trỏ và họ quay lưng cả trên các trang mạng xã hội, khi có một ai đó không may qua đời, haynhững sự việc nào đó không vui xảy ra thì các bạn trẻ còn sẵn sàng lập ra nhữngfanpage đại loại như là 1000000 like cho ca sĩ X sống lại, hay là 1000000 cho Avà B quay lại với nhau? Liệu chỉ một cái nhấp chuột có thể cải tử hoàn sinh, và chỉmột cái nhấp chuột có thể hóa giải mọi thứ, biến xấu thành tốt? Tất cả chỉ vì lợi íchcủa bản thân, vì kinh đoạn clip ta thấy dòng chữ “ Vô cảm, sẽ không còn ai thấy bạn”. Đúng vậy,nếu khi ta thờ ơ với những người khác khi gặp nạn thì đồng nghĩa với việc ta cũngsẽ bị người khác thờ Sinh viên trong giờ họcHoạt động của sinh viên trong giờ lên lớp rất “phong phú”, “đa dạng”, vì mỗingười sẽ chọn cho mình một cách tiếp thu khác nhau…Khi lười học, khi môn học ấy “cực kì chán”, khi không hứng thú, khi vì một vài lído không chính đáng, sinh viên có thể cúp học bất cứ lúc nào. Nhưng nếu có điểmdanh, bắt buộc đi, thì họ sẽ miễn cưỡng đến trường. Và họ làm gì trong giờ học?- Chăm chú nghe giảng chiếm rất ít-Chú ý nghe giảng giúp tiếp thu bài giảng sâuBiểu hiện Thường ngồi bàn đầu, chăm chú nghe giảng, tích cực phát biểu, đặt vấnđề hỏi lại thầy cô, siêng làm bài tập, chép đầy đủ nội dung trong bài giảng, ghi chúthêm một số điều không có trong sách vở, lúc có thuyết trình thì hăng say nghe,hăng say đăng kí, hăng say đặt vấn đề. Dù môn học có chán cách mấy, dù buồn ngủđến thế nào, họ vẫn lắng nghe với phương châm “thà học nhiều còn hơn bỏ sót”.Chỉ trong trường hợp bất khả kháng, họ mới nghỉ học. Tóm lại, họ là “ngọc trongđá”, lâu lâu mới thấy được một Nói chuyện-Trong tiết học mà thoải mái như giờ ra chơiBiểu hiện Thường ngồi bàn giữa hoặc bàn cuối, đôi khi ngồi bàn đầu. Họ tụm lạivới nhau theo từng cặp, hay một nhóm ba người, bốn người. Họ nói rất khẽ, và họhăng say vào câu chuyện, quên cả không gian, thời gian. Khi có một số nội dungcần ghi chú, họ sẽ “nghỉ ngơi” để chép miệt mài, sau đó tiếp tục tán chuyện. Chủđề họ nói là vô cùng bao la, rộng lớn, họ tập trung, lao lực hết mực chỉ để đượcnói, được trò chuyện và xua tan đi nỗi uể oải chán chường. Thời điểm nói chủ yếuvào lúc khoảng 30 phút tính từ khi tiết học bắt đầu, và có thể kéo dài cho đến khinghỉ giữa giờ, thậm chí đến cuối tiết Suy nghĩ bâng quơ-Biểu hiện Nhìn giảng viên, nhìn bảng, nhìn quanh lớp, nhìn ra cửa sổ, sau đó tậptrung nhìn về một điểm nào đó nhưng tâm trí vẫn hướng về những điều xa xôi,chẳng hạn như mai này mình sẽ ra sao, làm gì, “nửa kia” của mình là ai, ngày mainên đi uống cà phê hay xem đá bóng, tối nay không ngủ thì nên làm gì, giờ này bamẹ đang thế nào… Có khi giảng viên kể một câu chuyện, họ bị đắm chìm trongcâu chuyện ví dụ đó, và tưởng tượng thêm một vài tình tiết khác cho đến cuốigiờ…- Giết thời gian-Xem phim ngay trong tiết giảngBiểu hiện Họ nguệch ngoạc vài dòng lên giấy, vẽ những gì mình tưởng tượng, hớpmột ngụm nước, ăn một viên kẹo, lấy máy tính ra bấm, chọc ghẹo người ngồi kếbên, mân mê quyển sách, liếc sang chiếc đồng hồ của tên ngồi trước, nhìn sang mộtbạn nữ đáng yêu, xem cách trình bày slide trên máy chiếu… Nói tóm lại, họ làmnhững việc không tên vô nghĩa để mong thời gian trôi qua thật mau. Nhưng thườngthì càng trông đợi, càng thấy mọi thứ diễn ra vô cùng chậm…- “Ôm” điện thoại-Điện thoại cũng là nguyên nhân khiến sinh viên sao nhãngThời hi-tek, chiếc điện thoại là “vật bất li thân”, thế nên cứ 5 phút, sinh viên lại lôiđiện thoại ra xem giờ cũng không còn là chuyện lạ. Đôi khi họ sẽ nhắn tin qua lại,chat, vào web, nghe nhạc, hoặc chơi game trên điện thoại. Hết pin, đôi khi họ sạctrực tiếp trong giảng đường! Thời gian trôi, họ mải mê với chiếc điện thoại…- Ngủ-Ngủ trên giảng đườngBan đầu, họ cố chống cằm và nghe giảng chăm chú để xua tan đi cơn mệt mỏi. Rồihọ gục xuống bàn tai vẫn chăm chú nghe giảng, chỉ là họ hơi buồn ngủ tí thôi,sau đó họ ngủ quên từ khi nào chẳng rõ. Cho đến khi có một tràng pháo tay, mộtcâu nói nhấn mạnh, một tiếng ồn lạ nào đó, họ mới sực tỉnh, và với cái đầu nhứcnhư búa bổ do ngủ chưa đủ giấc và do ngủ gật, họ tiếp tục nghe giảng mà đầutrống rỗng, chẳng có khái niệm rõ rệt…Có vẻ như là siêng năng, nhưng…- Ghi ghi ghi…-Biểu hiện Họ ngồi thẳng, im lặng và ghi chép, nhưng họ nghe “tiếng được tiếngkhông”, vì họ lắng nghe như phản xạ, nhưng đầu óc mải mê nghĩ đến nhữngchuyện khác, hay lo ra, muốn được về… Đôi khi họ sẽ che miệng ngáp, gục đầuxuống rồi lại thẳng người ngay, tiếp tục nghe giảng… Thi thoảng họ lại xem đồnghồ, lôi điện thoại ra nhắn tin, nói chuyện với bạn bên cạnh… Tóm lại, họ hoạt độngrất nhiều, mà tiếp thu được bao nhiêu thì chỉ có họ mới hiểu…Dù họ làm gì trong giờ học đi chăng nữa, thì khi hết giờ, họ đều có chung mộtđiểm gương mặt tỉnh táo, thoải mái vô cùng và hứng khởi khi… ra về !?Chương 3. Giải pháp, kiến nghị, đề xuấtĐể sinh viên có thể ứng xử tốt hơn nhằm góp phần xây dựng văn hóa học đườngtrong sáng, lành mạnh, trước hết mỗi sinh viên cần có ý chí quyết tâm thay đổicách ứng xử chưa phù hợp, chưa văn hóa của mình. Trong hành trang để bước vàođời của sinh viên, không thể thiếu kiến thức về giao tiếp, ứng xử. Vì vậy, ngoàiviệc bồi dưỡng rèn luyện về chuyên môn, sinh viên cần nhiệt tình tham gia cácphong trào thi đua do đoàn trường, nhà trường phát động. Thông qua tham gia cáchoạt động đó, sinh viên sẽ mở rộng mối quan hệ của mình, từ đó rèn luyện đượcphong thái bình tĩnh, tự tin, chủ động, khéo léo trong giao tiếp, ứng xử. Khi nhàtrường tổ chức các buổi nói chuyện về kỹ năng mềm, sinh viên nên tham gia để tựmình rút ra những điều bổ ích trong giao tiếp, ứng xử. Nếu như sinh viên luôn quantâm đến vấn đề này và có ý chí rèn luyện thì nhất định sẽ thành một trí thức có vănhóa, có thể giao tiếp, ứng xử thông minh, khéo léo, tế nhị trong mọi trường này sẽ góp phần không nhỏ cho thành công trong sự nghiệp và giải quyết tốtmọi mối quan hệ trong cuộc cạnh chú trọng giảng dạy kiến thức chuyên môn, nhà trường cần chú trọnggiảng dạy, bồi dưỡng văn hóa giao tiếp, ứng xử. Nhà trường không nên chỉ chútrọng việc dạy chữ mà xem nhẹ việc dạy người. Đưa môn học giao tiếp, ứng xửthành một môn học bắt buộc. Chú trọng mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng mềm chosinh viên. Tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm về chủ đề văn hóa học đường nóichung và văn hóa giao tiếp, ứng xử nói riêng để sinh viên có cơ hội trao đổi suynghĩ của mình về vấn đề này và tiếp thu những cách ứng xử có văn trường cũng cần ban hành những quy định về văn hóa học đường, trong đó cóvăn hóa giao tiếp ứng xử để có sự ràng buộc nhất định ứng xử của sinh viên, hạnchế những trường hợp sinh viên ứng xử thiếu văn hóa với thầy cô giáo, với bạn chế này cũng cần phải có quy định về chế tài thực hiện để nếu sinh viên nào viphạm sẽ bị xử lý, nhẹ nhất là trừ điểm rèn luyện. Đoàn thanh niên nhà trường cũngcần phải tổ chức các diễn đàn về giao tiếp, ứng xử của sinh viên, tổ chức các cuộcgiao lưu với sinh viên các trường bạn, với thanh niên ở các cơ quan, địa phươngkhác. . .Để sinh viên có thể giao tiếp, ứng xử có văn hóa, không thể không nói đến ứng xửcủa thầy, cô giáo. Thầy, cô giáo là mẫu mực cho các em trong ứng xử. Nếu thầy, côgiáo chưa làm được điều đó thì thật khó mà giáo dục sinh viên về vấn đề này. Dođó, mỗi lời nói, thái độ, hành động, của thầy, cô giáo phải thực sự là chuẩnmực để các em noi theo. Nếu thầy giáo hút thuốc nơi công cộng thì làm sao có thểphê bình được sinh viên khi các em cũng làm như vậy. Sinh viên là lứa tuổi giàulòng tự trọng lại chưa thật sự chín chắn, dễ xốc nổi, do đó, nếu các em có lỗi, khiphê bình cũng cần khéo léo, nhẹ nhàng, tế nhị. Thực hiện được như vậy, các em sẽdễ dàng tiếp thu để sửa chữa. Ngược lại, nếu nóng nảy thiếu tôn trọng thì các em sẽphản kháng gay gắt, nhất là đối với những em có cá tính. Chúng ta nên nhớ rằngkhông phải cứ làm thầy là nói gì cũng được, trò cũng phải nghe. Dù thời đại nào đichăng nữa thì “chính danh định phận” của Khổng Tử vẫn luôn đúng “Thầy phải rathầy thì mới có trò ra trò”. Do đó, bản thân thầy, cô giáo nhất là lứa tuổi còn trẻcũng cần phải bồi dưỡng về cư xử có văn hóa cho bản đình cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến việc giáo dục, bồi dưỡng ứngxử có văn hóa cho sinh viên. Do đó, các bậc phụ huynh phải hết sức chú trọngtrong giao tiếp ứng xử với nhau, với con cái, với họ hàng, láng giềng, đồngnghiệp… Ứng xử của cha mẹ, ông bà là ứng xử mà các em sớm tiếp nhận nhấttrong cuộc đời và trực tiếp nhất, có ảnh hưởng nhiều nhất. Cha mẹ ứng xử với nhauthiếu văn hóa thì làm sao con có thể ứng xử có văn hóa được. Ngày một ngày hai,ứng xử của gia đình đã thành nếp ứng xử của các em. Do đó, hơn bao giờ hết, giađình phải là nơi thể hiện sự ứng xử có văn hóa để sinh viên dễ dàng tiếp nhận Tử cũng từng nói “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” nghĩa là “vua phảira vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con”. Vì vây, muốn con làm trọnbổn phận con thì trước hết, cha mẹ phải làm tròn bổn phận của cha trường xã hội cũng là yếu tố tác động không nhỏ đến ứng xử của sinh viên. Vìvậy, các phương tiện thông tin đại chúng phải tuyên truyền cho những hành vi ứngxử có văn hóa, tinh tế, phù hợp với truyền thống dân tộc của mọi lứa tuổi, mọi tầnglớp trong xã hội nói chung và của sinh viên nói riêng. Đồng thời, cần phải lên ánnhững hành vi ứng xử thiếu văn hóa. Có như vậy mới có thể xây dựng một phongcách ứng xử đẹp cho sinh viên nói riêng và cho tất cả mọi người Việt Nam. Điềunày rất quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Thế giới sẽ nghĩ gì vềhình ảnh nước Việt Nam khi tiếp xúc với tầng lớp trí thức trẻ của nước ta lại cư xửthiếu văn hóa? Vì vậy, chú trọng bồi dưỡng ứng xử có văn hóa cho sinh viên là mộtnội dung quan trọng trong sự nghiệp giáo 3 KẾT LUẬNĐã đến lúc xã hội cần nhìn nhận vấn đề đạo đức học sinh, sinh viên trong nhàtrường hiện nay với một tinh thần trách nhiệm và nghiêm túc. Cần phải đổi mớihoàn toàn cách thức mà lâu nay chúng ta đã dùng để giáo dục đạo đức học sinh,sinh viên. Bản thân giáo dục đã mang tính xã hội hóa, nhà nước cần tạo điều kiệnđể toàn dân tham gia vào công tác giáo dục học sinh, sinh viên. Điều quan trọng làcần có một môi trường xã hội lành mạnh, mọi người sống tuân thủ pháp luật và tôntrọng những giá trị đạo đức xã hội. Một môi trường xã hội tốt sẽ tác động vào nhậnthức của học sinh, sinh viên và các em cũng phải tuân thủ những nguyên tắc ứngxử đã được học trong nhà trường mà cả xã hội đang áp DỰNG BẢN CÂU HỎICâu 1. Theo bạn, sinh viên xưng hô theo kiểu "ông" và "bà" thay vì xưng hô “cậu”và tớ là nên hay không nên?A Nên vì như thế mới phong cách giới trẻB Không nên vì không đúng với cách xưng hô của người Việt NamCâu 2. Đối với những môn học bạn ko thích, ngồi trong lớp bạn sẽA Vẫn ghi chép và nghe giảngB Làm việc khácCâu 3. Bạn có tham gia hoạt động tình nguyện không?A CóB KhôngCâu 4. Khi có các chương trình kêu gọi ủng hộ các hoàn cảnh khó khăn ở cổngtrường bạn, bạn sẽA Tìm hiểu và ủng hộ chương trình nếu có thểB Đi qua và không quan tâmCâu 4. Nếu đủ các điều kiện, bạn có hiến máu tình nguyện ko?A CóB Không muốnCâu 5. Bạn suy nghĩ như nào về hành động xả rác bừa bãi của sinh viên? Bạn đãtừng bao giờ làm vậy chưa?Câu 6. Bạn đã từng ngủ gật trong lớp học bao giờ chưa kể cả giờ giải lao?Câu LIỆU THAM KHẢO1. Slide môn Phương pháp nghiên cứu khoa học – Trường Đại học Thương mại2. Tiểu luận “Sự cần thiết của văn hóa ứng xử” – sv trường Đại học Khoa họcxã hội và nhân văn3. Nguồn tài liệu từ internet- />- />- />- />CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc*****TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠIKHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾBIÊN BẢN HỌP NHÓM Lần 1Môn học Phương pháp nghiên cứu khoa họcThực hiện nhóm 8 - Lớp 1503SCRE0111 Ngày họp 17/03/2014 Địa điểm tầng 2 nhà V Đại học thương mạiThành viên Thị NếtPhạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy NgânNguyễn Kim NgânVũ Thảo Ngân7. Vũ Thị Minh Ngân8. Nguyễn Thị Ngọc9. Nguyễn Thị NguyệtNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânNội dung Gặp mặt thành viên và tìm kiếm đề tàiNhận xét mọi người có mặt đầy đủHà Nội, ngày 17/03/2015Nhóm trưởngCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc*****TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠIKHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾBIÊN BẢN HỌP NHÓM Lần 2Môn học Phương pháp nghiên cứu khoa họcThực hiện nhóm 8 - Lớp 1503SCRE0111 Ngày họp 31/03/2014 Địa điểm tầng 2 nhà V Đại học thương mạiThành viên Thị NếtPhạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy NgânNguyễn Kim NgânVũ Thảo Ngân7. Vũ Thị Minh Ngân8. Nguyễn Thị Ngọc9. Nguyễn Thị NguyệtNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânNội dung-Thống nhất đề tàiLập đề cươngPhân chia công việcNhóm trưởng lập facebook nhóm, thêm thành viên vào và đôn đốc mọingười thảo luận trên facebook nhómNhận xét mọi người có mặt đầy đủ, làm việc nhiệt Nội, ngày 31/03/2015Nhóm trưởngCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc*****TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠIKHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾBIÊN BẢN HỌP NHÓMHình thức họp nhóm onlineMôn học Phương pháp nghiên cứu khoa họcThực hiện nhóm 8 - Lớp 1503SCRE0111 Ngày họp các ngày từ 31/03 đến 19/04/2015 Địa điểm facebook nhóm “PPNCKH”Thành viên Thị NếtPhạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy NgânNguyễn Kim NgânVũ Thảo NgânVũ Thị Minh NgânNguyễn Thị NgọcNguyễn Thị NguyệtNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânNội dung Nhóm trưởng đôn đốc mọi người thảo luận, các thành viên gửi bài lênfacebook nhóm. Nhóm trưởng thảo luận và gửi bài cho thành viên làm slide, xét thỉnh thoảng có một số bạn không có điều kiện online để cập nhật nhưngnhìn chung nhóm làm việc khá sôi nổi, các thành viên gắn kết với Nội, ngày 19/04/2015Nhóm trưởngBẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊNNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânSTTHỌ VÀ TÊNCÔNG VIỆC1Trần Thị NếtLời mở đầu234Phạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy Ngân5Nguyễn Kim Ngân6Vũ Thảo NgânKết luận; làm slideThực trạng chungGiải pháp; tổng hợpbản wordTổng luận về đề tàinghiên cứuThuyết trình7Vũ Thị Minh NgânCác biểu hiện tiêubiểu trong thực trạngXẾPLOẠIKÝ TÊN8Nguyễn Thị Ngọc9Nguyễn Thị NguyệtCác biểu hiện tiêubiểu trong thực trạngThực trạng chung
Thực trạng lối sống sinh viên hiện nayBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây KB, 30 trang Có thể bạn quan tâmCuộc thi marathon Rock n Roll Las Vegas 2023 diễn ra ở đâu?Giá cà phê hiện tại bao nhiêu?Lạm phát của Úc sẽ là bao nhiêu vào năm 2023?Cuộc họp RBA tháng 3 năm 2023Carneiro 2023 dấu hiệu của người Maya I TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng mặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập vào. Vì thế mà xã hội ngày càng phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay đổi về tư tưởng về lối sống của nhiều người. Đặc biệt ở đây , một vấn đề rất được quan tâm là lối sống của sinh viên ngày nay. Nói đến sinh viên tức là nói đến thế hệ đang nắm trong tay tri thức cùng với những hiểu biết về tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ. Họ là lớp người đang được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học Nói đến sinh viên Việt Nam tức là nói đến một thế hệ trẻ đầy sức sống và sức sáng tạo. Họ nắm trong tay tri thức của thời đại, chìa khóa mở ra cánh cửa cho tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ .Hiện nay Việt Nam có tổng số 376 trường đại học, cao đẳng trên cả nước, trong đó bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý 54 trường, các Bộ, ngành khác quản lý 116 trường, Các tỉnh, thành phố là cơ quan chủ quản của 125 trường. Tổng số sinh viên bậc đại học hiện nay khoảng người, số lượng tuyển sinh hằng năm trong những năm gần đây khoảng người/kỳ thi. Về mặt chất lượng, sinh viên là lớp người trẻ được đào tạo toàn diện và đấy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố chuyên ngành theo học, sự phân bố các trường, khu vực sinh sống và học tập, lối sống của sinh viên Việt Nam nhìn chung cực kỳ đa dạng và phong phúNhưng xã hội ngày càng văn minh hiện đại, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, công cuộc hội nhập với thế giới càng cao, đời sống con người càng được nâng cao thì càng đặt ra cho sinh viên, tầng lớp tri thức, giới trẻ ngày nay càng nhiều thử thách. Khi mà các nền văn hóa phương tây đang du nhập vào Việt Nam, có những điều tốt đẹp nhưng cũng không ít những giá trị văn hóa không thích hợp với tư tưởng, truyền thống của người phương đông, câu hỏi đặt ra là sinh viên, tầng lớp trí thức sẽ thích ứng thế nào với một môi trường mới? Họ sẽ chọn lọc học những cái hay, cái đẹp phù hợp với bản thân hay học theo cái xấu không phù hợp để rồi dần dần đánh mất đi những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Mỗi người có một cách thích ứng riêng nên nó đã tạo nên nhiều lối sống trong sinh viên và giới trẻ. Sinh viên là lớp thanh niên trí thức đại diện và quyết định tương lai đất nước, chính vì thế việc bàn về lối sống của sinh viên là một điều quan trọng và hết sức cần TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1- Thực trạng sinh viên hiện nay thụ động trong học tập Làm thêm, dạy kèm, bán hàng , tiếp thị dẫn đến lơ là học tập, hoặc không theo nổi chương trình học đại học là những lý do sinh viên bị buộc thôi học. Tuy nhiên đó không phải là lý do chính, vì có những sinh viên vừa học vừa làm thêm nhưng kết quả học tập vẫn đạt điểm nhân ở đây là do sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảovà tâm lí quen với việc đọc _chép. Từ đó dẫn đến thực trạng thụ động trong học tập của phần lớn sinh viên hiện nay. Từ thực tế trên cho thấy bên cạnh chương trình học tập đại học hiện nay đã nặng nề, thì công cụ để truyền tải kiến thức hiện nay cũng chưa lấy gì làm hài lòng. Số sinh viên tìm đến thư viện không nhiều, chỉ lác đác vài bạn đến thư viện những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút khi mùa thi đến. Nhân viên quản lý thư viện cho biết, một ngày bình quân chỉ có khoảng vài chục em đến đây ngồi học, tìm tòi tư khi đó, giờ giảng dạy của giảng viên trên lớp không có gì hơn ngoài một cái micrô cứ ọc-ẹc theo kiểu mạnh thầy thầy cứ nói, còn lớp học đông đúc thì mạnh trò, trò ngủ. Tại một hội thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy đại học mới đây, một giáo sư ở Trường ĐH Sư phạm đã phải cảnh báo khi ông khám phá ra cách học tập của sinh viên mà ông trực tiếp giảng dạy hiện nay thụ động đến độ khó tin! Để kiểm nghiệm cách học thụ động này đến đâu, vị giáo sư đã làm cuộc điều tra bỏ túi tuần đầu chỉ đứng giảng trên lớp cho sinh viên và cả học viên cao học ghi chép, kết quả chỉ 40% đạt điểm kiểm tra trên trung hai, giáo sư lên lớp chỉ hướng dẫn đầu sách tham khảo, kết quả trên 60 % sinh viên đạt điểm trung bình. Trong hai tuần này, tinh thần học tập của sinh viên không mấy thích thú, thậm chí có người nằm ngủ gật! Nhưng đến tuần thứ ba, vị giáo sư áp dụng phương pháp gợi mở câu hỏi đề tài, thì cả lớp thảo luận, tranh cãi quyết liệt, và kết quả học tập khiến cho vị giáo sư hài lòng 90% đạt điểm kiểm tra trên trung bình. Ở các nước tiên tiến, một giáo sư khi giảng dạy trên lớp luôn phải đi kèm từ một đến hai trợ giảng. Những trợ giảng này luôn đảm nhiệm công tác điều phối không khí lớp học, nội dung học tập của sinh viên và tổ chức những cemina cho sinh viên bàn thảo đề tài học tập, gợi mở kiến thức. Từ đó, người học bị lôi cuốn theo chiều hướng chủ động và sáng tạo. Nhưng đó là chuyện ở các nước, còn ở các trường ĐH chúng ta hiện nay, để làm được việc này vẫn còn khoảng cách khá xa! Thêm nữa, tâm lí quen đọc _ chép mỗi khi trên lớp cũng dẫn tới tình trạng thụ động của sinh viên, nếu giảng viên không đọc thì sinh viên cũng không chép, chỉ ngồi nghe và thưc tế là kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít,thậm chí là không có gì. Trong khi đó sinh viên cũng không có thói quen đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà. Rõ ràng khi ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không dám nhìn nhận cái sai.... Trong mỗi giờ học, chuyện sinh viên phát biểu ý kiến là rất ít thay vào đó là Giảng viên nêu vấn đề, sinh viên cúi mặt xuống bàn... Đó là việc các thầy cô đứng trên bục giảng và yêu cầu nhiều lần các sinh viên trả lời câu hỏi. Đó không phải là những câu hỏi khó. Thông thường nó đều nằm trong phạm vi hiểu biết và có thể trả lời của sinh viên. Thế nhưng rất ít có cánh tay nào giơ lên. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến không khí học tập trong lớp. Nó gây ra một cảm giác rất áp lực mỗi khi thầy cô đặt câu hỏi. sinh viên thì cảm thấy áp lực, còn giáo viên cũng cảm thấy chán nản vì chỉ có sự làm việc một chiều. Vậy thì nguyên nhân do đâu sinh viên "không thèm phát biểu ý kiến trong giờ học ? Sau đây là 6 nguyên nhân được đưa ra 1 Chuyện phát biểu là chuyện của ai đó chứ không phải của mình. Mình không phát biểu thì sẽ có người khác phát biểu, thế thôi . 2 Không muốn là người đầu tiên. Đây là một tâm lý khá phổ biến bởi khi một người nào đó đã giơ tay phát biểu và khi thầy cô tiếp tục hỏi về vấn đề đó thì có khá nhiều người xung phong nhưng lại không giơ tay ngay từ đầu . 3 Không phát biểu không sao, vì thầy cô gọi mãi không ai xung phong thì sẽ "chọn mặt gửi vàng" trong danh sách lớp và sẵn làm luôn công việc điểm danh. Xong, thế là qua chuyện, họa hoằn lắm thầy cô mới gọi trúng mình. 4 Đa phần những người hay phát biểu không phải là những "sao" trong lớp. Không hiểu rằng các "sao" này sợ phát biểu nếu sai sẽ bị mất hình tượng hay sao mà không bao giờ giơ tay phát biểu nhưng lại thích ngồi ở dưới trả lời nho nhỏ. 5 Trong những giờ học ngoại ngữ , điều này lại càng khó chịu hơn. Lớp học thật sự căng thẳng mỗi khi thầy cô có câu hỏi và yêu cầu xung phong. Lớp học thì ít người, thầy cô cứ đứng trên mà kêu gọi, ở dưới sinh viên cứ cúi mặt xuống bàn . 6Và cuối cùng có lẽ chính là do sự thụ động, nhút nhát trong một bộ phận lớn sinh viên hiện nay. Tuy nhiên, "chuyện phát biểu trong sinh viên" không phải chỉ xuất hiện ở giảng đường đại học. Ngay từ ngôi trường cấp II, cấp III điều này cũng đã khá quen thuộc. Thế nhưng quy mô những lớp học ngày xưa còn nhỏ, thầy cô đã khá quen mặt nên nếu không xung phong, thầy cô sẵn sàng gọi lên bảng. Ở cấp I lại khác, các em phát biểu khá hồn nhiên và luôn làm theo lời cô dạy "hăng hái phát biểu ý kiến". Vậy thì tại sao lại xảy ra một hiện tượng kỳ quặc đến như vậy?! Phải nhìn nhận rằng sự vô trách nhiệm, thụ động, ỷ lại đang thật sự tồn tại trong một bộ phận lớn những người chủ tương lai của đất nước . Từ việc ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không dám nhìn nhận cái sai. Như thế, cái sai không được đưa ra ánh sáng, không được làm rõ nên sẽ không thể tìm ra được cách giải quyết, không thể tiến bộ. Một đất nước mà có thế hệ trẻ như thế thì lạc hậu là chuyện không thể tránh khỏi. Thông qua việc tiến hành khảo sát bằng câu hỏi tại sao sinh viên giờ lười phát biểu? ở một số bạn sinh viên nằm rải rác ở một số trường ĐH và CĐ và đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng "ít phát biểu" được rút ra từ 15 phiếu khảo sát tiêu biểu nhất1 . Do sinh viên quá lười học, không chịu chuẩn bị bài trước ở nhà mà chỉ đợi lên lớp chờ giảng viên giảng rồi chép vào nên không đủ kiến thức để trả lời những câu hỏi của thầy cô2 . Vì sợ phát biểu sai bị bạn bè cười nhạo và đôi khi sợ bị thầy cô la hoặc có thể bị trừ điểm thì "quê độ"3 . Trong lớp không ai giơ tay phát biểu mà mình phát biểu thì sợ bị coi là "chảnh"4 . Có khi câu hỏi quá khó vượt ngoài kiến thức hiểu biết5 . Có thể sinh viên không cảm thấy hứng thú với môn học, tiết học thiếu tranh ảnh minh họa, giảng viên giảng bài chưa cuốn hút... nên sinh viên chọn cách ngồi chép bài là hơn6 . Tán chuyện hoặc không tập trung nghe giảng nên không hiểu rõ câu hỏi7 . Đôi khi câu hỏi được đặt ra quá dễ, bạn nào cũng biết rồi nên không ai giơ tay phát biểu vì không có hứng 8 . Trong một số trường hợp giơ tay phát biểu là vì được khuyến khích cộng thêm điểm số nhưng đây chỉ là phần thiểu số9 . Không khí trong lớp học không được sôi động10 . Sợ phát biểu đúng có thể thầy cô sẽ đặt tiếp những câu hỏi khác mà mình không biết trước được11 . Không tự tin vào bản thân, ngại ngùng khi phải đứng lên và trả lời trước đám đông... Phần lớn sinh viên được khảo sát cho rằng những nguyên nhân có ảnh hưởng tiêu cực tới hứng thú học tập trong sinh viên là trong quá trình giảng dạy, giảng viên không đưa ra các tình huống để kích thích sinh viên tư duy, không cập nhật thông tin về đời sống xã hội, phần lớn thời gian trong giờ học giảng viên chỉ đọc cho sinh viên chép những kiến thức sẵn có trong giáo trình rồi giải thích qua loa, không tạo được bầu không khí thân thiện trong lớp... Nhưng ngoài ra Sự áp đặt của giảng viên cũng khiến sinh viên sợ sai ! Đa phần sinh viên rất ngại phát biểu, trừ khi gặp những vấn đề khúc mắc không tự tìm hiểu được thì mới cần phải hỏi trực tiếp giảng viên. Ở một số môn học, đặc biệt là các môn đại cương, có thể nói giảng viên chỉ truyền đạt lại cho sinh viên theo cách đọc - chép nên không tạo được bầu không khí học tập sôi động. Một số giáo viên có nêu câu hỏi rồi chỉ định hoặc để sinh viên tự giơ tay trả lời, nhưng phần đông sinh viên không hưởng ứng lắm. Những nguyên nhân chính khiến sinh viên ngại phát biểu là cảm giác sợ sai. Sự áp đặt của giáo viên cũng "đóng góp" vào tâm lý sợ sai của sinh viên. So với thế giới, sinh viên nước ta còn thụ động. Chỉ có chừng vài phần trăm sinh viên là chủ động. Điều này làm giảm năng lực tự nghiên cứu của sinh viên. Khác với học sinh, nhiệm vụ của sinh viên là học và nghiên cứu. Sinh viên không nên thụ động, lên giảng đường nghe thầy giảng rồi... trả lại cho thầy mà phải tự tìm tài liệu đọc để thảo luận trước lớp. Việc thầy cô gợi ý để sinh viên thảo luận cũng thể hiện được sự chưa chủ động ở sinh viên. Vậy mà thậm chí, có khi thầy nêu vấn đề thảo luận rồi mà sinh viên vẫn ngồi im, không hăng hái tham gia. Điều này làm giảm chất lượng giờ dạy vì giảng viên muốn nghe ý kiến sáng tạo, giải quyết vấn đề của sinh viên. Một số giảng viên phải đưa ra biện pháp cộng điểm cho sinh viên nào tích cực phát biểu. Không đọc trước tài liệu làm tăng tính rụt rè của sinh viên khi phát biểu trước lớp. Kết quả là bạn trẻ tốt nghiệp ĐH rồi mà vẫn nhút nhát và e ngại khi diễn đạt trước đám đông, dẫn đến sự hạn chế tinh thần làm việc theo nhóm và khả năng lãnh đạo nhóm. Nếu tâm lý nhút nhát này phổ biến rộng rãi thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Theo đó, hầu hết bạn trẻ nước ta mới ra trường chưa thể làm "sếp" ngay được, trong khi ở các nước tiên tiến chỉ chừng 30 tuổi là người ta đã thể hiện rõ chất lãnh đạo của mình. Tự tin phát biểu nghĩa là mạnh dạn trước công chúng. Điều này càng quan trọng đối với người trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn vì đây là khả năng thuyết phục được người khác thông qua lời nói. Sợ không dám nói nghĩa là bỏ qua cơ hội. Để khắc phục được điều này, sinh viên phải tự học để nắm vững kiến thức và mạnh dạn phát biểu. nhưng mỗi sinh viên lớn lên trong môi trường văn hoá, xã hội khác nhau, hình thành những thói quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức, hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng và sự phong phú về phong cách học, một số sinh viên học tập tích cực, chủ động, một số khác lại tỏ ra thụ động, thích im lặng ngồi nghe hơn là tranh cãi. Vậy sinh viên mong muốn gì ở giảng viên? Làm nên sự thụ động của sinh viên, lỗi cũng một phần chính là ở giảng viên. Đa số sinh viên được khảo sát mong muốn giảng viên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để tích cực hoá người học trong các giờ học. Có 88,8% sinh viên muốn các bài giảng của giảng viên gồm cả những tri thức mới không có trong giáo trình; 73,3% sinh viên thích được giảng viên giao làm những bài tiểu luận để giúp họ phát triển khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán; 82,4% sinh viên thích giảng viên hỏi, khuyến khích sinh viên đặt câu hỏi, hướng dẫn sinh viên đào sâu suy nghĩ để hiểu bản chất hơn là thuyết trình suốt cả tiết học; 85,6% sinh viên muốn khi bắt đầu mỗi môn học, giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn phương pháp học, tài liệu tham khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu tham khảo này; 79,2% sinh viên mong muốn các môn học có nhiều giờ tự học có hướng dẫn và giải đáp thắc mắc hơn so với hiện nay. Tuy nhiên, khi đưa ra con số chỉ có 34,7% sinh viên thích hỏi và đưa ra những quan điểm của cá nhân, nhưng có dự báo rằng những đổi mới về phương pháp dạy và học theo hướng tích cực hoá người học có thể sẽ gặp những khó khăn đáng kể do nếp nghĩ và các thói quen học thụ động đã định hình ở một bộ phận lớn sinh viên hiện nay. Các nghiên cứu về tâm lý học đường cho thấy chương trình đào tạo với phương pháp giảng dạy mang tính nhồi nhét kiến thức hiện nay đã tạo ra một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên thụ động, thiếu khả năng thích ứng xã hội. Sinh viên luôn thụ động với khối lượng kiến thức về lý thuyết, việc thực hành, thực tập bị xem nhẹ, thậm chí bị bỏ qua, từ đó tạo ra một bộ phận không nhỏ sinh viên thụ động, vụng về, thiếu khả năng thích ứng xã hội. Thực trạng sinh viên lười lao động và học tập ngày một nhiều. Bởi lẽ gia đình cứ tưởng con em mình đang vất vả, lao tâm khổ tứ cày trên giảng đường, luôn sợ con vất vả hơn bạn bè, gởi tiền dư giả. Nào ngờ, một số bạn luôn ăn chơi sa đà, nhậu nhẹt đến suốt sáng, chơi bài bạc, game... Chờ tới khi thi, nước tới chân mới nhảy. 2- Thực trạng lối sống sinh viên chia làm 3 loại Theo một nghiên cứu của trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia Thạc sĩ Nguyễn Ánh Hồng Giảng viên Khoa Giáo dục học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia vừa hoàn thành cuộc điều tra xã hội về lối sống của sinh viên hiện nay. Sinh viên được chọn mẫu ngẫu nhiên tại ba trường thành viên Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐH Bách khoa. Trên cơ sở tìm hiểu sự lựa chọn các hoạt động cơ bản của sinh viên bằng phương pháp phân tích nhân tố và phân tích phân loại đã cho thấy ba kiểu sống cơ bản của sinh viên hiện nay. 60% sống khép mình, ít tham gia hoạt động xã hội! Kiểu sống của nhóm sinh viên này chiếm tỷ lệ cao nhất trong các kiểu sống của sinh viên tại Họ vẫn chú ý đến học tập và thường gặp gỡ, thăm hỏi bạn bè và người thân nhưng thường trong phạm vi hẹp. Ngoài ra họ còn xem ti vi, đọc sách báo. Có điều họ ít tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị, sinh hoạt tập thể. Đây là cách sống thiếu năng động, thiếu tích cực, ít hòa nhập vào đời sống xã hội. Trước những sự kiện đang xảy ra xung quanh mình, họ luôn tỏ thái độ bàng quan. Ngay cả lửa cháy như cháy Trung tâm Quốc tế ITC cũng không hề tác động xi nhê gì đến họ! Kết quả nghiên cứu trên còn cho thấy môi trường sống đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống của sinh viên. Chẳng hạn, sinh viên sống cùng với gia đình thể hiện một lối sống chăm lo bản thân và người thân, nhưng thiếu tích cực hòa nhập vào đời sống xã hội chung. Trong khi đó, những sinh viên sống xa nhà lại gắn bó với cuộc sống tập thể và xã hội hơn. Do vậy, lối sống tích cực ở họ cũng cao hơn hẳn những sinh viên cùng sống với gia đình. Đặc biệt môi trường sống ở ký túc xá đã ảnh hưởng lớn đối với việc hình thành kiểu sống này. 10% sinh viên hướng vào vui chơi, hưởng thụ!Gồm những sinh viên hướng hoạt động của mình vào việc vui chơi mang tính hưởng thụ, nhiều khi vô bổ, ít chú ý đến việc mở mang kiến thức và hoàn thiện nhân cách. Tớ chỉ thích điện thoại nào đời mới..., Phim Hàn Quốc đang chiếu tới tập..., Hàng hiệu hợp thời ở chỗ.... Đó là những điều quan tâm thường trực trong đời sống hàng ngày của nhóm sinh viên này. Tuy vậy, họ là những con người rất năng động, hứng thú với những hoạt động vui chơi, giải trí, hưởng thụ những thú vui của tuổi trẻ, thể hiện một lối sống tiêu dùng "sành điệu". Lắm khi ăn chơi kiểu bạt mạng đến quên cả lối về! 30% sinh viên say mê học tập?Và ai cũng biết rằng trách nhiệm của người sinh viên hôm nay đến giảng đường là để học hỏi, tìm kiếm một ngành nghề nào đó cho cuộc sống tương lai, hoặc để tự nâng cao kiến thức hiểu biết Nhưng điều đáng tiếc đã xảy ra chỉ có 30% trong số họ thực hiện được công việc này. Đây là nhóm sinh viên có thái độ sống tích cực, năng động, có chí hướng và say mê học tập. Những hoạt động của nhóm sinh viên này nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện cá nhân như học thêm, làm thêm, đọc sách, đi thư viện. Đồng thời họ cũng thích xem biểu diễn nghệ thuật, tham gia vào các hoạt động xã hội, câu lạc bộ, các lễ hội truyền thống Nhóm sinh viên này hướng những hoạt động của mình vào mục đích thỏa mãn nhu cầu phát triển cá nhân, đồng thời cũng có những hoạt động hướng ngoại tích cực như hướng đến những nơi giao tiếp công cộng, đại chúng. Nơi họ đến và tham gia hoạt động là những tổ chức hoạt động chính quy với mục đích lành - Lối sống đẹp Lối sống lý tưởng Sống đẹp là phải biết ứng xử văn minh, tích cực tham gia hoạt động cộng đồng, bảo vệ môi trường, kính trọng thầy cô và xa lánh những tệ nạn trong giảng đường như quay cóp, hút thuốc, rượu bia, đánh nhau...Nhiều sinh viên luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo ra cơ hội . Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh , sáng chế; và không ít trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu ích trong thực tiễn. Với thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu, sinh viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương phấp học sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào thầy cô, họ tự mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn. Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ ngày nay luôn phát huy tinh thần học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiệnNgoài giờ học, những sinh viên-tuyên truyền viên hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà Bằng sự năng động, sinh viên luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đỏi và phát triển của xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của sinh viên Việt Nam thời đại mới. Một số bộ phận sinh viên luôn thể hiện mình là những con người táo bạo và tự tin. Sinh viên dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách. Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Có thể thành công
Nhìn chung, trong 6 năm 2015-2021, tổng số học sinh cả nước tăng 2,5 triệu, từ 19,3 lên 21,8 triệu, tăng khoảng 12,95%.Cụ thể, trong giai đoạn 2015-2021, số lượng học sinh mẫu giáo có xu hướng giảm, năm 2015 là 3,978 triệu học sinh, năm 2021 có 3,895 triệu học đối với học sinh phổ thông, trong giai đoạn 2015-2021 có xu hướng tăng. Năm 2015, số lượng học sinh phổ thông là 15,35 triệu học sinh, đến năm 2021 là 17,92 triệu học sinh tăng hơn 2,5 triệu học sinh. Trong đó, tăng mạnh nhất ở cấp học tiểu học, từ nghìn học sinh tăng lên thành nghìn học sinh tăng nghìn học sinh.Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, tại thời điểm đầu năm học 2021-2022, cả nước có 17,9 triệu học sinh phổ thông, tăng 2,1%, so với năm học trước, bao gồm 9,2 triệu học sinh tiểu học, tăng 3,7%; 5,9 triệu học sinh trung học cơ sở, tăng 0,3% và 2,8 triệu học sinh trung học phổ thông, tăng 1,1%.Trong khi số lượng học sinh tăng khoảng 12,95% trong giai đoạn 2015-2021 thì trong giai đoạn này số lớp học tăng khoảng 3,8% năm 2015 có 648,2 nghìn lớp học, năm 2021 có 673 nghìn lớp học, như vậy trong 6 năm các cơ sở giáo dục được bổ sung thêm lớp học.Nhìn vào số lượng học sinh và số lượng lớp học, xu hướng tăng không đồng đều khiến tỷ lệ học sinh trên một lớp học liên tục bậc tiểu học, vào năm 2015, một lớp học trung bình có 27,5 học sinh. 6 năm sau, con số này tăng lên 31,9 học sinh. Tương tự, tại bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông, số học sinh trên một lớp học lần lượt tăng từ 33,5 lên 37,3 và 37,8 lên 39, Thông tư 28 năm 2020 về Điều lệ trường tiểu học, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mỗi lớp học không quá 35 học sinh. Đối với cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, do đặc thù dạy theo từng môn và tiết học, một lớp không quá 45 học tỷ lệ học sinh trên lớp học theo thống kê chưa vượt khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tuy nhiên việc số lượng học sinh trung bình trong một lớp học ngày càng nhiều đặt ra vấn đề về việc đảm bảo chất lượng giáo dục, nhất là tại các đô thị lớn khi học sinh đông và tăng thể, số học sinh tăng dần đều qua các năm, tốc độ bổ sung lớp học không thể theo kịp nên Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đang gặp nhiều khó khăn trong việc bảo đảm chỗ học cho học sinh, nhiều lớp lên tới 50-60 học số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, năm học 2022-2023, thành phố dự kiến tăng hơn học sinh. Trong đó, bậc mầm non tăng học sinh, bậc trung học cơ sở tăng học sinh, trung học phổ thông tăng học sinh. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 575 phòng học mới dự kiến được đưa vào sử dụng trong năm học Hà Nội, thực tế, nhiều trường tiểu học ở nội thành có sĩ số hơn 50 học sinh/lớp, thậm chí có nơi 60 em/lớp. Con số này vượt quá xa so với quy định Điều lệ trường tiểu học. Tình trạng này hiện diễn ra ở nhiều quận như Thanh Xuân, Hà Đông, Hoàng Mai, Cầu Giấy,... nơi có nhiều chung cư cao tầng mọc lên nhanh chóng. Theo kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2023 sẽ xem xét, xây dựng phần mềm dạy học trực tuyến dùng chung của toàn ngành. Lãnh đạo Bộ Giáo dục - Đào tạo GD&ĐT cho biết, năm 2023, các trường đại học có quyền công bố xét tuyển sớm. Học chữ để thay đổi cuộc sống là nguyện vọng nhiều học viên tại các lớp xóa mù chữ trên địa bàn huyện Mù Cang Chải. Từ đó, năm 2022, toàn huyện đã mở 7 lớp xóa mù chữ, 7 lớp sau biết chữ và 1 lớp phổ cập THCS từng bước nâng cao trình độ cho người dân. Trong năm 2022, huyện Văn Yên đã thành lập 5 nhóm trẻ mầm non ngoài công lập, đưa tổng số đơn vị giáo dục mầm non ngoài công lập lên 9 cơ sở 2 trường và 5 nhóm trẻ. GDVN-Mặc dù quy mô sinh viên tăng lên hàng năm, tuy nhiên số sinh viên tốt nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học qua các năm lại có chiều hướnggiảm. Quy mô đào tạo đại học năm 2020, số liệu từ Niên giám thống kê năm 2021. Đồ họa Doãn Nhàn Số lượng các cơ sở giáo dục đại học Theo số liệu, trong khoảng thời gian từ năm 2015-2020, nước ta đã có thêm 19 cơ sở giáo dục đại học mới được mở ra, trong đó 6 trường ngoài công lập và 13 trường công lập. Giai đoạn từ 2015-2017, số lượng các cơ sở giáo dục đại học được mở mới tăng mạnh nhất 13 trường. Cụ thể từ năm 2015-2017 có thêm 5 trường đại học ngoài công lập được mở ra, số trường đại học công lập được mở mới là 8 trường. Giai đoạn từ năm 2017-2019 ít có sự biến động về số lượng các cơ sở giáo dục đại học. Trong 2 năm từ 2019-2020, có thêm 1 trường đại học ngoài công lập và 4 trường đại học công lập được thành lập. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang khẩn trương triển khai xây dựng quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2035 theo hướng thiết lập một hệ thống giáo dục đại học mở, công bằng, bình đẳng, chất lượng, hiệu quả và phục vụ nhu cầu học tập suốt đời; đáp ứng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao, tăng cường ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước; bảo đảm đầu tư công bằng, khách quan, khoa học, công khai, minh bạch và hiệu quả, đồng thời là cơ sở huy động nguồn lực xã hội phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học. Số lượng giảng viên Về đội ngũ giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học giai đoạn từ 2015-2020, nhìn chung số lượng giáo viên có chiều hướng tăng lên, với số lượng khoảng hơn 1000 giảng viên được bổ sung mới mỗi năm. Cụ thể năm 2015, tổng số giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học là 69,6 nghìn giảng viên, năm 2020 số giảng viên tăng lên là 76,6 nghìn giảng viên. Như vậy, trong vòng 6 năm, có thêm khoảng 7000 giảng viên được bổ sung vào các cơ sở giáo dục đại học. Trong đó, số lượng giảng viên ở các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập tăng thêm khoảng 4000 giảng viên, cơ sở giáo dục đại học công lập tăng thêm 3000 giảng viên. Năm học 2022-2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục chú trọng triển khai có hiệu quả Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học giai đoạn 2019 - 2030. Số lượng sinh viên Số sinh viên tại các cơ sở giáo dục đại học trong vòng 5 năm qua từ năm 2015-2020 có sự biến động đáng kể. Nhìn chung, số lượng sinh viên có chiều hướng gia tăng, đột biến có giai đoạn từ 2017-2019 số lượng sinh viên giảm đáng kể. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê vào năm 2015, tổng số sinh viên ở các cơ sở giáo dục đại học bao gồm cả công lập và ngoài công lập là 1753,2 nghìn sinh viên. Đến năm 2020, số sinh viên tăng thêm khoảng 152,8 nghìn sinh viên, nâng tổng số sinh viên tại các cơ sở giáo dục đại học là 1906 nghìn sinh viên. Tuy nhiên, năm 2018, số lượng sinh viên biến động giảm, theo thống kê chỉ có khoảng 1526,1 nghìn sinh viên. Từ năm 2018-2020, số lượng sinh viên bắt đầu có chiều hướng tăng trở lại. Nhìn vào biểu đồ thống kê cho thấy số lượng sinh viên ở các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập có sự tăng trưởng khá mạnh. Cụ thể, năm 2015, số lượng sinh viên tại các cơ sở này mới chỉ đạt 232,4 nghìn sinh viên, đến năm 2020 số lượng đã tăng lên 365,4 nghìn sinh viên tăng 36,4%. Số sinh viên tốt nghiệp Mặc dù quy mô sinh viên tăng lên hàng năm, tuy nhiên số sinh viên tốt nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học bao gồm công lập và ngoài công lập qua các năm lại có chiều hướng giảm. Cụ thể, năm 2015, số sinh viên tốt nghiệp là 352,8 nghìn sinh viên, tuy nhiên năm 2020, số sinh viên tốt nghiệp chỉ có khoảng 242,4 nghìn sinh viên giảm 11,04%. Trong đó, số sinh viên tốt nghiệp tại cơ sở giáo dục đại học công lập giảm đáng kể. Năm 2015, tại các cơ sở giáo dục đại học công lập có khoảng 307,8 nghìn sinh viên, đến năm 2020 số sinh viên tốt nghiệp chỉ đạt 209 nghìn sinh viên giảm 47,27%.Xem thêm Các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập cũng có số lượng sinh viên tốt nghiệp giảm qua các năm mặc dù quy mô sinh viên vẫn tăng đều từng năm. Năm 2015, số sinh viên tốt nghiệp tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập là 45 nghìn sinh viên, năm 2020 chỉ có 33,4 nghìn sinh viên giảm 34,73%.
I TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng mặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập vào. Vì thế mà xã hội ngày càng phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay đổi về tư tưởng về lối sống của nhiều người. Đặc biệt ở đây, một vấn đề rất được quan tâm là lối sống của sinh viên ngày nay. Nói đến sinh viên tức là nói đến thế hệ đang nắm trong tay tri thức cùng với những hiểu biết về tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ. Họ là lớp người đang được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học Nói đến sinh viên Việt Nam tức là nói đến một thế hệ trẻ đầy sức sống và sức sáng tạo. Họ nắm trong tay tri thức của thời đại, chìa khóa mở ra cánh cửa cho tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ .Hiện nay Việt Nam có tổng số 376 trường đại học, cao đẳng trên cả nước, trong đó bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý 54 trường, các Bộ, ngành khác quản lý 116 trường, Các tỉnh, thành phố là cơ quan chủ quản của 125 trường. Tổng số sinh viên bậc đại học hiện nay khoảng người, số lượng tuyển sinh hằng năm trong những năm gần đây khoảng người/kỳ thi. Về mặt chất lượng, sinh viên là lớp người trẻ được đào tạo toàn diện và đấy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố chuyên ngành theo học, sự phân bố các trường, khu vực sinh sống và học tập, lối sống của sinh viên Việt Nam nhìn chung cực kỳ đa dạng và phong phú Nhưng xã hội ngày càng văn minh hiện đại, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, công cuộc hội nhập với thế giới càng cao, đời sống con người càng được nâng cao thì càng đặt ra cho sinh viên, tầng lớp tri thức, giới trẻ ngày nay càng nhiều thử thách. Khi mà các nền văn hóa phương tây đang du nhập vào Việt Nam, có những điều tốt đẹp nhưng cũng không ít những giá trị văn hóa không thích hợp với tư tưởng, truyền thống của người phương đông, câu hỏi đặt ra là sinh viên, tầng lớp trí thức sẽ thích ứng thế nào với một môi trường mới? Họ sẽ chọn lọc học những cái hay, cái đẹp phù hợp với bản thân hay học theo cái xấu không phù hợp để rồi dần dần đánh mất đi những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Mỗi người có một cách thích ứng riêng nên nó đã tạo nên nhiều lối sống trong sinh viên và giới trẻ. Sinh viên là lớp thanh niên trí thức đại diện và quyết định tương lai đất nước, chính vì thế việc bàn về lối sống của sinh viên là một điều quan trọng và hết sức cần thiết. II-THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1- Thực trạng sinh viên hiện nay thụ động trong học tập Làm thêm, dạy kèm, bán hàng, tiếp thị dẫn đến lơ là học tập, hoặc không theo nổi chương trình học đại học là những lý do sinh viên bị buộc thôi học. Tuy nhiên đó không phải là lý do chính, vì có những sinh viên vừa học vừa làm thêm nhưng kết quả học tập vẫn đạt điểm nhân ở đây là do sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảovà tâm lí quen với việc đọc _chép. Từ đó dẫn đến thực trạng thụ động trong học tập của phần lớn sinh viên hiện nay. Từ thực tế trên cho thấy bên cạnh chương trình học tập đại học hiện nay đã nặng nề, thì công cụ để truyền tải kiến thức hiện nay cũng chưa lấy gì làm hài lòng. Số sinh viên tìm đến thư viện không nhiều, chỉ lác đác vài bạn đến thư viện những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút khi mùa thi đến. Nhân viên quản lý thư viện cho biết, một ngày bình quân chỉ có khoảng vài chục em đến đây ngồi học, tìm tòi tư khi đó, giờ giảng dạy của giảng viên trên lớp không có gì hơn ngoài một cái micrô cứ ọc-ẹc theo kiểu mạnh thầy thầy cứ nói, còn lớp học đông đúc thì mạnh trò, trò ngủ. Tại một hội thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy đại học mới đây, một giáo sư ở Trường ĐH Sư phạm đã phải cảnh báo khi ông khám phá ra cách học tập của sinh viên mà ông trực tiếp giảng dạy hiện nay thụ động đến độ khó tin! Để kiểm nghiệm cách học thụ động này đến đâu, vị giáo sư đã làm cuộc điều tra bỏ túi tuần đầu chỉ đứng giảng trên lớp cho sinh viên và cả học viên cao học ghi chép, kết quả chỉ 40% đạt điểm kiểm tra trên trung hai, giáo sư lên lớp chỉ hướng dẫn đầu sách tham khảo, kết quả trên 60 % sinh viên đạt điểm trung bình. Trong hai tuần này, tinh thần học tập của sinh viên không mấy thích thú, thậm chí có người nằm ngủ gật! Nhưng đến tuần thứ ba, vị giáo sư áp dụng phương pháp gợi mở câu hỏi đề tài, thì cả lớp thảo luận, tranh cãi quyết liệt, và kết quả học tập khiến cho vị giáo sư hài lòng 90% đạt điểm kiểm tra trên trung bình. Ở các nước tiên tiến, một giáo sư khi giảng dạy trên lớp luôn phải đi kèm từ một đến hai trợ giảng. Những trợ giảng này luôn đảm nhiệm công tác điều phối không khí lớp học, nội dung học tập của sinh viên và tổ chức những cemina cho sinh viên bàn thảo đề tài học tập, gợi mở kiến thức. Từ đó, người học bị lôi cuốn theo chiều hướng chủ động và sáng tạo. Nhưng đó là chuyện ở các nước, còn ở các trường ĐH chúng ta hiện nay, để làm được việc này vẫn còn khoảng cách khá xa! Thêm nữa, tâm lí quen đọc _ chép mỗi khi trên lớp cũng dẫn tới tình trạng thụ động của sinh viên, nếu giảng viên không đọc thì sinh viên cũng không chép, chỉ ngồi nghe và thưc tế là kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít,thậm chí là không có gì. Trong khi đó sinh viên cũng không có thói quen đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà. Rõ ràng khi ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không dám nhìn nhận cái sai…. Trong mỗi giờ học, chuyện sinh viên phát biểu ý kiến là rất ít thay vào đó là Giảng viên nêu vấn đề, sinh viên cúi mặt xuống bàn… Đó là việc các thầy cô đứng trên bục giảng và yêu cầu nhiều lần các sinh viên trả lời câu hỏi. Đó không phải là những câu hỏi khó. Thông thường nó đều nằm trong phạm vi hiểu biết và có thể trả lời của sinh viên. Thế nhưng rất ít có cánh tay nào giơ lên. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến không khí học tập trong lớp. Nó gây ra một cảm giác rất áp lực mỗi khi thầy cô đặt câu hỏi. sinh viên thì cảm thấy áp lực, còn giáo viên cũng cảm thấy chán nản vì chỉ có sự làm việc một chiều. Vậy thì nguyên nhân do đâu sinh viên “không thèm phát biểu ý kiến trong giờ học ? Sau đây là 6 nguyên nhân được đưa ra 1 Chuyện phát biểu là chuyện của ai đó chứ không phải của mình. Mình không phát biểu thì sẽ có người khác phát biểu, thế thôi. 2 Không muốn là người đầu tiên. Đây là một tâm lý khá phổ biến bởi khi một người nào đó đã giơ tay phát biểu và khi thầy cô tiếp tục hỏi về vấn đề đó thì có khá nhiều người xung phong nhưng lại không giơ tay ngay từ đầu. 3 Không phát biểu không sao, vì thầy cô gọi mãi không ai xung phong thì sẽ “chọn mặt gửi vàng” trong danh sách lớp và sẵn làm luôn công việc điểm danh. Xong, thế là qua chuyện, họa hoằn lắm thầy cô mới gọi trúng mình. 4 Đa phần những người hay phát biểu không phải là những “sao” trong lớp. Không hiểu rằng các “sao” này sợ phát biểu nếu sai sẽ bị mất hình tượng hay sao mà không bao giờ giơ tay phát biểu nhưng lại thích ngồi ở dưới trả lời nho nhỏ. 5 Trong những giờ học ngoại ngữ, điều này lại càng khó chịu hơn. Lớp học thật sự căng thẳng mỗi khi thầy cô có câu hỏi và yêu cầu xung phong. Lớp học thì ít người, thầy cô cứ đứng trên mà kêu gọi, ở dưới sinh viên cứ cúi mặt xuống bàn. 6Và cuối cùng có lẽ chính là do sự thụ động, nhút nhát trong một bộ phận lớn sinh viên hiện nay. Tuy nhiên, “chuyện phát biểu trong sinh viên” không phải chỉ xuất hiện ở giảng đường đại học. Ngay từ ngôi trường cấp II, cấp III điều này cũng đã khá quen thuộc. Thế nhưng quy mô những lớp học ngày xưa còn nhỏ, thầy cô đã khá quen mặt nên nếu không xung phong, thầy cô sẵn sàng gọi lên bảng. Ở cấp I lại khác, các em phát biểu khá hồn nhiên và luôn làm theo lời cô dạy “hăng hái phát biểu ý kiến”. Vậy thì tại sao lại xảy ra một hiện tượng kỳ quặc đến như vậy?! Phải nhìn nhận rằng sự vô trách nhiệm, thụ động, ỷ lại đang thật sự tồn tại trong một bộ phận lớn những người chủ tương lai của đất nước. Từ việc ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không dám nhìn nhận cái sai. Như thế, cái sai không được đưa ra ánh sáng, không được làm rõ nên sẽ không thể tìm ra được cách giải quyết, không thể tiến bộ. Một đất nước mà có thế hệ trẻ như thế thì lạc hậu là chuyện không thể tránh khỏi. Thông qua việc tiến hành khảo sát bằng câu hỏi tại sao sinh viên giờ lười phát biểu? ở một số bạn sinh viên nằm rải rác ở một số trường ĐH và CĐ và đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng “ít phát biểu” được rút ra từ 15 phiếu khảo sát tiêu biểu nhất 1. Do sinh viên quá lười học, không chịu chuẩn bị bài trước ở nhà mà chỉ đợi lên lớp chờ giảng viên giảng rồi chép vào nên không đủ kiến thức để trả lời những câu hỏi của thầy cô 2. Vì sợ phát biểu sai bị bạn bè cười nhạo và đôi khi sợ bị thầy cô la hoặc có thể bị trừ điểm thì “quê độ” 3. Trong lớp không ai giơ tay phát biểu mà mình phát biểu thì sợ bị coi là “chảnh” 4. Có khi câu hỏi quá khó vượt ngoài kiến thức hiểu biết 5. Có thể sinh viên không cảm thấy hứng thú với môn học, tiết học thiếu tranh ảnh minh họa, giảng viên giảng bài chưa cuốn hút… nên sinh viên chọn cách ngồi chép bài là hơn 6. Tán chuyện hoặc không tập trung nghe giảng nên không hiểu rõ câu hỏi 7. Đôi khi câu hỏi được đặt ra quá dễ, bạn nào cũng biết rồi nên không ai giơ tay phát biểu vì không có hứng 8. Trong một số trường hợp giơ tay phát biểu là vì được khuyến khích cộng thêm điểm số nhưng đây chỉ là phần thiểu số 9. Không khí trong lớp học không được sôi động 10. Sợ phát biểu đúng có thể thầy cô sẽ đặt tiếp những câu hỏi khác mà mình không biết trước được 11. Không tự tin vào bản thân, ngại ngùng khi phải đứng lên và trả lời trước đám đông… Phần lớn sinh viên được khảo sát cho rằng những nguyên nhân có ảnh hưởng tiêu cực tới hứng thú học tập trong sinh viên là trong quá trình giảng dạy, giảng viên không đưa ra các tình huống để kích thích sinh viên tư duy, không cập nhật thông tin về đời sống xã hội, phần lớn thời gian trong giờ học giảng viên chỉ đọc cho sinh viên chép những kiến thức sẵn có trong giáo trình rồi giải thích qua loa, không tạo được bầu không khí thân thiện trong lớp… Nhưng ngoài ra Sự áp đặt của giảng viên cũng khiến sinh viên sợ sai ! Đa phần sinh viên rất ngại phát biểu, trừ khi gặp những vấn đề khúc mắc không tự tìm hiểu được thì mới cần phải hỏi trực tiếp giảng viên. Ở một số môn học, đặc biệt là các môn đại cương, có thể nói giảng viên chỉ truyền đạt lại cho sinh viên theo cách đọc – chép nên không tạo được bầu không khí học tập sôi động. Một số giáo viên có nêu câu hỏi rồi chỉ định hoặc để sinh viên tự giơ tay trả lời, nhưng phần đông sinh viên không hưởng ứng lắm. Những nguyên nhân chính khiến sinh viên ngại phát biểu là cảm giác sợ sai. Sự áp đặt của giáo viên cũng “đóng góp” vào tâm lý sợ sai của sinh viên. So với thế giới, sinh viên nước ta còn thụ động. Chỉ có chừng vài phần trăm sinh viên là chủ động. Điều này làm giảm năng lực tự nghiên cứu của sinh viên. Khác với học sinh, nhiệm vụ của sinh viên là học và nghiên cứu. Sinh viên không nên thụ động, lên giảng đường nghe thầy giảng rồi… trả lại cho thầy mà phải tự tìm tài liệu đọc để thảo luận trước lớp. Việc thầy cô gợi ý để sinh viên thảo luận cũng thể hiện được sự chưa chủ động ở sinh viên. Vậy mà thậm chí, có khi thầy nêu vấn đề thảo luận rồi mà sinh viên vẫn ngồi im, không hăng hái tham gia. Điều này làm giảm chất lượng giờ dạy vì giảng viên muốn nghe ý kiến sáng tạo, giải quyết vấn đề của sinh viên. Một số giảng viên phải đưa ra biện pháp cộng điểm cho sinh viên nào tích cực phát biểu. Không đọc trước tài liệu làm tăng tính rụt rè của sinh viên khi phát biểu trước lớp. Kết quả là bạn trẻ tốt nghiệp ĐH rồi mà vẫn nhút nhát và e ngại khi diễn đạt trước đám đông, dẫn đến sự hạn chế tinh thần làm việc theo nhóm và khả năng lãnh đạo nhóm. Nếu tâm lý nhút nhát này phổ biến rộng rãi thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Theo đó, hầu hết bạn trẻ nước ta mới ra trường chưa thể làm “sếp” ngay được, trong khi ở các nước tiên tiến chỉ chừng 30 tuổi là người ta đã thể hiện rõ chất lãnh đạo của mình. Tự tin phát biểu nghĩa là mạnh dạn trước công chúng. Điều này càng quan trọng đối với người trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn vì đây là khả năng thuyết phục được người khác thông qua lời nói. Sợ không dám nói nghĩa là bỏ qua cơ hội. Để khắc phục được điều này, sinh viên phải tự học để nắm vững kiến thức và mạnh dạn phát biểu. nhưng mỗi sinh viên lớn lên trong môi trường văn hoá, xã hội khác nhau, hình thành những thói quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức, hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng và sự phong phú về phong cách học, một số sinh viên học tập tích cực, chủ động, một số khác lại tỏ ra thụ động, thích im lặng ngồi nghe hơn là tranh cãi. Vậy sinh viên mong muốn gì ở giảng viên? Làm nên sự thụ động của sinh viên, lỗi cũng một phần chính là ở giảng viên. Đa số sinh viên được khảo sát mong muốn giảng viên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để tích cực hoá người học trong các giờ học. Có 88,8% sinh viên muốn các bài giảng của giảng viên gồm cả những tri thức mới không có trong giáo trình; 73,3% sinh viên thích được giảng viên giao làm những bài tiểu luận để giúp họ phát triển khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán; 82,4% sinh viên thích giảng viên hỏi, khuyến khích sinh viên đặt câu hỏi, hướng dẫn sinh viên đào sâu suy nghĩ để hiểu bản chất hơn là thuyết trình suốt cả tiết học; 85,6% sinh viên muốn khi bắt đầu mỗi môn học, giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn phương pháp học, tài liệu tham khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu tham khảo này; 79,2% sinh viên mong muốn các môn học có nhiều giờ tự học có hướng dẫn và giải đáp thắc mắc hơn so với hiện nay. Tuy nhiên, khi đưa ra con số chỉ có 34,7% sinh viên thích hỏi và đưa ra những quan điểm của cá nhân, nhưng có dự báo rằng những đổi mới về phương pháp dạy và học theo hướng tích cực hoá người học có thể sẽ gặp những khó khăn đáng kể do nếp nghĩ và các thói quen học thụ động đã định hình ở một bộ phận lớn sinh viên hiện nay. Các nghiên cứu về tâm lý học đường cho thấy chương trình đào tạo với phương pháp giảng dạy mang tính nhồi nhét kiến thức hiện nay đã tạo ra một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên thụ động, thiếu khả năng thích ứng xã hội. Sinh viên luôn thụ động với khối lượng kiến thức về lý thuyết, việc thực hành, thực tập bị xem nhẹ, thậm chí bị bỏ qua, từ đó tạo ra một bộ phận không nhỏ sinh viên thụ động, vụng về, thiếu khả năng thích ứng xã hội. Thực trạng sinh viên lười lao động và học tập ngày một nhiều. Bởi lẽ gia đình cứ tưởng con em mình đang vất vả, lao tâm khổ tứ cày trên giảng đường, luôn sợ con vất vả hơn bạn bè, gởi tiền dư giả. Nào ngờ, một số bạn luôn ăn chơi sa đà, nhậu nhẹt đến suốt sáng, chơi bài bạc, game… Chờ tới khi thi, nước tới chân mới nhảy. 2- Thực trạng lối sống sinh viên chia làm 3 loại Theo một nghiên cứu của trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐH Quốc gia Thạc sĩ Nguyễn Ánh Hồng Giảng viên Khoa Giáo dục học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐH Quốc gia vừa hoàn thành cuộc điều tra xã hội về lối sống của sinh viên hiện nay. Sinh viên được chọn mẫu ngẫu nhiên tại ba trường thành viên Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐH Bách khoa. Trên cơ sở tìm hiểu sự lựa chọn các hoạt động cơ bản của sinh viên bằng phương pháp phân tích nhân tố và phân tích phân loại đã cho thấy ba kiểu sống cơ bản của sinh viên hiện nay. 60% sống khép mình, ít tham gia hoạt động xã hội! Kiểu sống của nhóm sinh viên này chiếm tỷ lệ cao nhất trong các kiểu sống của sinh viên tại Họ vẫn chú ý đến học tập và thường gặp gỡ, thăm hỏi bạn bè và người thân nhưng thường trong phạm vi hẹp. Ngoài ra họ còn xem ti vi, đọc sách báo. Có điều họ ít tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị, sinh hoạt tập thể. Đây là cách sống thiếu năng động, thiếu tích cực, ít hòa nhập vào đời sống xã hội. Trước những sự kiện đang xảy ra xung quanh mình, họ luôn tỏ thái độ bàng quan. Ngay cả lửa cháy như cháy Trung tâm Quốc tế ITC cũng không hề tác động xi nhê gì đến họ! Kết quả nghiên cứu trên còn cho thấy môi trường sống đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống của sinh viên. Chẳng hạn, sinh viên sống cùng với gia đình thể hiện một lối sống chăm lo bản thân và người thân, nhưng thiếu tích cực hòa nhập vào đời sống xã hội chung. Trong khi đó, những sinh viên sống xa nhà lại gắn bó với cuộc sống tập thể và xã hội hơn. Do vậy, lối sống tích cực ở họ cũng cao hơn hẳn những sinh viên cùng sống với gia đình. Đặc biệt môi trường sống ở ký túc xá đã ảnh hưởng lớn đối với việc hình thành kiểu sống này. 10% sinh viên hướng vào vui chơi, hưởng thụ! Gồm những sinh viên hướng hoạt động của mình vào việc vui chơi mang tính hưởng thụ, nhiều khi vô bổ, ít chú ý đến việc mở mang kiến thức và hoàn thiện nhân cách. Tớ chỉ thích điện thoại nào đời mới…, Phim Hàn Quốc đang chiếu tới tập…, Hàng hiệu hợp thời ở chỗ…. Đó là những điều quan tâm thường trực trong đời sống hàng ngày của nhóm sinh viên này. Tuy vậy, họ là những con người rất năng động, hứng thú với những hoạt động vui chơi, giải trí, hưởng thụ những thú vui của tuổi trẻ, thể hiện một lối sống tiêu dùng “sành điệu”. Lắm khi ăn chơi kiểu bạt 30% mạng sinh đến viên quên say cả lối mê học về! tập? Và ai cũng biết rằng trách nhiệm của người sinh viên hôm nay đến giảng đường là để học hỏi, tìm kiếm một ngành nghề nào đó cho cuộc sống tương lai, hoặc để tự nâng cao kiến thức hiểu biết Nhưng điều đáng tiếc đã xảy ra chỉ có 30% trong số họ thực hiện được công việc này. Đây là nhóm sinh viên có thái độ sống tích cực, năng động, có chí hướng và say mê học tập. Những hoạt động của nhóm sinh viên này nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện cá nhân như học thêm, làm thêm, đọc sách, đi thư viện. Đồng thời họ cũng thích xem biểu diễn nghệ thuật, tham gia vào các hoạt động xã hội, câu lạc bộ, các lễ hội truyền thống Nhóm sinh viên này hướng những hoạt động của mình vào mục đích thỏa mãn nhu cầu phát triển cá nhân, đồng thời cũng có những hoạt động hướng ngoại tích cực như hướng đến những nơi giao tiếp công cộng, đại chúng. Nơi họ đến và tham gia hoạt động là những tổ chức hoạt động chính quy với mục đích lành mạnh. 3 – Lối sống đẹp Lối sống lý tưởng Sống đẹp là phải biết ứng xử văn minh, tích cực tham gia hoạt động cộng đồng, bảo vệ môi trường, kính trọng thầy cô và xa lánh những tệ nạn trong giảng đường như quay cóp, hút thuốc, rượu bia, đánh nhau… Nhiều sinh viên luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo ra cơ hội. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh, sáng chế; và không ít trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu ích trong thực tiễn. Với thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu, sinh viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương phấp học sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào thầy cô, họ tự mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn. Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ ngày nay luôn phát huy tinh thần học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiệnNgoài giờ học, những sinh viên-tuyên truyền viên hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà Bằng sự năng động, sinh viên luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đỏi và phát triển của xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của sinh viên Việt Nam thời đại mới. Một số bộ phận sinh viên luôn thể hiện mình là những con người táo bạo và tự tin. Sinh viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu thử thách. Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Có thể thành công hoặc thất bại, song họ không hề chùn bước. Với họ, mỗi lần thất bại lại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh nghiệm hơn. Đứng trước cha anh, họ luôn tự tin vào chính mình. Họ tin rằng với những tri thức mình có trong tay, với những gì họ đã, đang và sẽ làm, các bậc cha anh sẽ tự hào về tin nhưng không kiêu- đó chính là sinh viên Việt Nam. Phần lớn sinh viên đều rất khiêm tốn, họ không bao giờ nghĩ rằng như thế là mình đã hơn các bậc tiền bối. Trong suy nghĩ của họ, họ còn thiếu nhiều lắm, nhất là kinh nghiệm và sự từng trải. Chính vì thế, khi quyết định một điều gì, sinh viên không bao giờ quên tham khảo ý kiến của những người xung quanh, đặc biệt là bậc cha chú của mình. Và khi đã nhận được sự ủng hộ của lớp người đi trước, họ thêm tự tin thực hiện ý định của mình. Táo bạo song sinh viên không hề liều lĩnh. Trước khi thực hiện một việc gì, họ luôn tính toán, xem xét vấn đề một cách thận trọng. Nói rằng táo bạo, nghĩa là trước đó chưa có ai dám làm, dám thử nghiệm, họ là người đầu tiên thực hiện, chứ không phải họ đâm đầu thực hiện một việc mà họ không biết tỉ lệ thành công của mình. Khi cảm thấy mình đã có đủ mọi điều kiện cần thiết, họ mới bắt tay vào thực hiện. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, đó là nếu gặp rủi ro thất bại thì họ sẵn sàng chấp nhận như một chuyện đương nhiên tất yếu sẽ xảy ra, tức là có thất bại thì thất bại ấy cũng nằm trong kế hoạch. Họ dám nhìn thẳng vào thất bại và vượt qua nó. Tóm lại, táo bạo và tự tin cũng là điểm rất đáng quý trong lối sống của sinh viên. Phong cách độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập cũng góp phần xây dựng một hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam. Không giống như sinh viên các thế hệ trước chỉ biết sống phụ thuộc vào gia đình, sinh viên ngày nay đã biết thân tự lập thân. Không chỉ riêng việc học tập, mà mọi vấn đề khác trong cuộc sống đều được sinh viên giải quyết trong sự chủ động. Nếu như trong quá khứ, sinh viên còn chờ đợi tiền chu cấp của gia đình mỗi đầu tháng thì ngày nay mọi chuyện dường như đã khác đi rất nhiều. Ngoài giờ học, họ tìm việc làm kiếm thêm tiền mua sách vở hay phục vụ cho những chi tiêu thường ngày khác. Nhiều người không chỉ lo được cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ những người bạn khác thiệt thòi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn còn ngồi trong gảng đường đại học. Những con người ấy thật đáng khâm phục, xứng đáng trở thành những gương mặt tiêu biểu đại diện cho sinh viên Việt Nam thời đại mới. 4 Một số bộ phận có lối sống tha hóa, không đẹp- cần đáng lên án Lối sống không đẹp thể hiện ngay từ những điều chúng ta tưởng như là những điều nhỏ nhặt nhất mà nhiều khi chúng ta bỏ qua không để ý đến như xả rác ra đường, không nhường chỗ cho người già và phụ nữ mang thai khi trên xe buýt, thờ ơ trước những số phận kém may mắn.. Cờ bạc, lô đề không phải là hiện tượng mới lạ gì trong giới sinh viên. Chỉ cần lượn một vòng quanh các trường có nhiều nam sinh viên như đại học xây dựng, đại học giao thông vận tải là có thể thấy ngay dịch vụ lô đề trá hình dưới dưới các quầy bán sổ số mọc lên như nấm. Tầm từ 4h 5h30, lực lượng nam sinh viên tạt ù vào các quầy này đánh mấy con lô có khi nhiều gấp mấy lần số sinh viên đang ngồi trên thư viện nghiên cứu. Một buổi tối ngồi cùng cánh sinh viên trường đại học xây dựng, ta sẽ thấy giật mình khi được nghe kể những câu chuyện về mức độ liều lĩnh trong cách ăn chơi của một số hảo thủ trường này đã được giang hồ đồn thổi thành giai thoại. Hiện tượng sinh viên uống rượu đã trở thành chuyện thường ngày đối với nhiều người. Bất cứ một dịp nào sinh nhật, lễ tết, ngày cuối tuần thậm chí không cần nhân dịp gì các sinh viên cũng tụ tập chén tạc, chén thù. Sự thật đã có ba cậu sinh viên đại học xây dựng uống hết ba chai rượu Lúa Mới loại một lít một chai trong buổi liên hoan chia tay một đồng chí lên đường về quê mẹ vì bị đình chỉ học một năm mà đồ nhắm chỉ có vài củ lạc với vài quả khế. Uống xong, cả bọn say xỉn, nôn mửa ra phòng khiến ai vô tình đi ngang qua sẽ cảm thấy kinh hãi với lối sống buông thả của một bộ phận sinh viên hiện nay. Ai cũng biết uống nhiều như vậy sẽ cực hại đến lục phủ ngũ tạng nhưng tất cả đều phớt lờ và cho rằng vui là chính, sức khỏe là thứ yếu. thậm chí những khi viêm màng túi, nhiều sinh viên còn đi mua những loại rượu rẻ tiền chỉ vài nghìn đồng/ lít là rượu ít cồn nhiều. Uống những loại này, đầu đau như búa bổ, mắt nở hoa cà hoa cải vô cùng hại người. Biết thế, nhưng tất cả đều bỏ qua, chỉ cần lúc trăm phần trăm thấy vui là được. Mọi chuyện sau này đến đâu thì đến, không cần quan tâm. Tình yêu và vấn đề sống thử trong sinh viên cũng là vấn đề rất được quan tâm hiện nay, yêu nhiều, yêu vô tội vạ, bạ đâu yêu đấy. Nghe có vẻ buồn cười nhưng đó là sự thật. Nhiều sinh viên hiện nay quan niệm tình yêu đơn giản như mua một cái áo, sắm một cái quần. Thấy vừa, đẹp thì mặc lâu lâu một chút, không thấy ưng ý thì lại thay ra ngay và chuyển sang chiếc khác. một bộ phận sinh viên hiện nay đang đánh đồng tình yêu với tình dục. Nhiều người trong số họ quan hệ với bạn trai/ bạn gái mà thậm chí còn không nắm rõ quá khứ của nhau. Tiền sử những bệnh lây truyền qua đường tình dục của đối phương lại càng mù mịt. Học thức cao nhưng không ít đôi thiếu nghiêm trọng những kiến thức sinh sản giới tính. Hậu quả là tình trạng nạo phá thai ở Việt Nam đứng hàng cao nhất thế giới và không ít nam thanh nữ tú phải lén lút, vội vàng đến những phòng khám hoa liễu chữa trị căn bệnh khó nói. Khám chữa không đến nơi đến chốn, nhiều bạn đã phải trả giá quá đắt cho những phút giây lầm lỡ khi không còn khả năng sinh con. Nguy hiểm nhất là tình trạng tình cho không biếu không, những cô gái có tiểu sử tình dục không rõ ràng tự động đến sống chung với các nam sinh viên. Họ chỉ cần có chỗ ăn ở còn không cần yêu cầu gì khác. Đây thực chất là những cô gái bán hoa đã hết thời tìm cách mồi chài, chéo kéo những sinh viên vốn tò mò, thích của lạ. Đây là những đối tượng có nguy cơ bị nhiễm HIV rất cao. Mới đây, cái chết của một nam sinh trường TL vì bị nhiễm HIV từ những cô gái cho không biếu không này đã dấy lên dư luận lo ngại trong xã hội về thực trạng nhức nhối này. Một ví dụ Thu Giang Đại học Ngoại Thương , cô sinh viên gốc Hải Phòng có nước da trắng, dáng người dong dỏng cao, có khuôn mặt khả ái được coi là người luôn biết sống hết mình. Cô cười Phải sống hết mình chứ! Cái gì cũng có cái giá của nó. Chẳng ai cho không ai cái gì bao giờ Nói rồi cô nhảy lên sau chiếc xe của một anh chàng đi lẫn vào giữa dòng người. Còn Đại học Ngoại Ngữ Hà Nội, quê ở Yên Bái đã chuyển sang sống cùng người yêu ở làng Phùng Khoang đã được gần 3 tháng. Hàng ngày đi học về, cô lo cơm nước, giặt giũ cho người yêu. Nhiều khi bạn bè thấy cô vội vã, tất bật như người có gia đình. Cô cho rằng Sinh viên sống cùng người yêu chẳng có gì lạ, bạn bè mình đứa nào yêu cũng thế III ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Sinh viên trước hết mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người, mà theo Mác là “tổng hoà của các quan hệ xã hội”. Nhưng họ còn mang những đặc điểm riêng Tuổi đời còn trẻ, thường từ 18 đến 25 dễ thay đổi, chưa định hình rõ rệt về nhân cách, ưa các hoạt động giao tiếp, có tri thức đang được đào tạo chuyên môn. Sinh viên vì thế dễ tiếp thu cái mới, thích cái mới, thích sự tìm tòi và sáng tạo. Đây cũng là tầng lớp xưa nay vẫn khá nhạy cảm với các vấn đề chính trị- xã hội, đôi khi cực đoan nếu không được định hướng tốt. Một đặc điểm rất đáng chú ý đang xuất hiện trong những người trẻ hôm nay, liên quan đến sự phát triển của công nghệ thông tin với tư cách là một cuộc cách mạng, đó là sự hình thành một môi trường ảo, hình thành một lối sống ảo. Đặc điểm này chỉ biểu hiện trong giới trẻ, đặc biệt những người có tri thức như SV. Hình thành một phương pháp tư duy của thời đại công nghệ thông tin Ngôn ngữ ngắn gọn, viết bằng bàn phím thay vì cây bút, có tính lắp ghép chính xác, hệ thống, hạn chế sự bay bổng về mặt hình tượng trực quan. Con người vì thế sống trong một môi trường ảo, và cái hiện thực ở đây là cái hiện thực ảo, giao tiếp ảo. Về môi trường sống, SV thường theo học tập trung tại các trường ĐH và CĐ thường ở các đô thị, sinh hoạt trong một cộng đồng trường, lớp gồm chủ yếu là những thành viên tương đối đồng nhất về tri thức, lứa tuổi, với những quan hệ có tính chất bạn bè khá gần gũi Bất cứ một vấn đề hay đề tài nào cũng tồn tại hai mặt đối lập, trái ngược nhau. Trong đề tài này ta có thể thấy lối sống của sinh viên có hai mặt tích cực và tiêu cực. 1. Tính tiêu cực Trước tiên ta đánh giá những nét tiêu cực trong đời sống sinh viên Tư tưởng là vấn đề đầu tiên và cũng là vấn đề lớn nhất cần bàn đến. Tư tưởng của một bộ phận sinh viên còn lệch lạc. Dưới tác động ồ ạt của nền kinh tế thị trường, dường như giới trẻ ngày nay luôn nhìn sự vật dưới con mắt của người tư bản. Họ còn nghi ngờ vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là cái nhìn thiển cận, lệch lạc. Nhiều sinh viên đã đánh mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Thử hỏi những người nắm trong tay vận mệnh của đát nước mà có những tư tưởng như vậy thì tương lai của đất nước sẽ đi về đâu? Sinh viên sùng bái đồng tiền, đi kèm với giá trị vật chất. Nét tiêu cực trong lối sống của sinh viên còn thể hiện trong việc nhìn nhận một cách sai lầm về giá trị cuộc sống. Đó là hiện tượng sùng bái giá trị và cho rằng những thứ không mua được bằng tiền thì mua được bằng nhiều tiền, những thứ không mua được bằng nhiều tiền thì mua được bằng rất nhiều tiền, những thứ không mua được bằng rất nhiều tiền thì mua được bằng rất rất nhiều tiền rồi lại tiền là tiên là phật, tiền là sức bật của lò xo, tiền là thước đo của tuổi trẻ dường như chỉ có tiền và tiền là nhất. Nhiều thanh niên lấy đồng tiền là thước đo giá trị trong cuộc sống, sống không có lý tưởng hoặc lý tưởng chính là những yếu tố thực dụng như tiền bạc, danh vọng và địa vị. Coi trọng giá trị vật chất, xem thường giá trị tinh thần, ít nghĩ tới lợi ích chung nên họ quên đi những tình cảm thiêng liêng chung quanh mình, quên đi những mối quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Đó là thước đo giá trị của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội ấy kẻ có tiền là kẻ mạnh. Chính vì thế, không ít sinh viên con nhà giàu đã sử dụng đồng tiền gây ra nhiều chuyện sai trái có liên quan đến đạo đức như mua điểm, chèn ép bạn bè Lối sống hưởng thụ dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực khác trong sinh viên tệ nạn xã hội, thái độ không đúng đắn đối với lao động xảy ra nhiều trong sinh viên. Chủ nghĩa cá nhân có xu hướng tăng trong giới trẻ ngày nay. Trào lưu dân chủ hóa, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt rõ trong những người trẻ có học vấn là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Nhiều người chỉ quan tâm đến những lợi ích cá nhân trước mắt mà quên mất lợi ích tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân, một số thanh niên còn bất chấp cả pháp luật, gia đình, bạn bèkhi trả lời câu hỏi việc làm khi ra trường bạn muốn?, hơn một nửa các bạn trẻ muốn có công việc nhiều tiền, chỉ có 24% muốn chọn công việc có thể cống hiến và phục vụ cho xã hội. Đây là một lối sống không tôt vì tiền mà bỏ qua các lợi ích xã hội. Một số khác sống không động chạm đến ai, nhưng cũng không quan tâm đến ai họ thu mình lại như những con ốc, sống khép kín. Họ ít trò chuyện, đi chơi cùng bạn bè. Chỉ cần biết đến mình, còn người khác thì mặc kể kiểu đèn nhà ai nấy rạng. Dường như có sự đề cao lợi ích cá nhân hơn nghĩa vụ cá nhân. Sự hy sinh và quan tâm đến người khác thấp đi, và nếu có thì đánh giá dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Nó thể hiện ngay trên những chỗ công cộng như xe buýt Sinh viên, giới trẻ như đang áp dụng phương pháp không nghe, không nhìn, không thấy, những việc của người khác thì tốt nhất không nên xen vào không sẽ bị thiệt thân thấy đánh nhau thì tránh xa, thấy người ta móc túi thì coi như không biết. Nói một cách khác dưới ảnh hưởng của xã hội giới trẻ như bị vô cảm trước mỗi việc đang xảy ra. Điều đó cũng khó mà chấp nhận được trong một đất nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng ngược lại những người có quan điểm sống hết mình, chơi hết mình, yêu hết mình theo trường phái con hổ cũng dễ rơi vào cạm bẫy mà người ta đã giăng ra dẫn tới hậu quả khó lường. Sinh viên một lối sống vị kỉ Lối sống thực dụng trong sinh viên bắt nguồn từ cuộc sống gắn với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Sùng bái đồng tiền, làm tất cả để đạt được mục đích của mình bất chấp thủ đoạn; coi những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong cuộc sống là tất yếu không những không thể thiếu mà còn rất quan trọng và hữu ích trong việc đạt mục đích cá nhân nếu mình không chạy theo sẽ chỉ có thiệt thòi cho bản thân, trước tiên mình phải nghĩ đến bản thân mình đã. Cái nhìn thực tế không ảo tưởng viển vông, không mơ mộng hóa sự việc là điều tốt, song tới mức thực dụng thì lại là chuyện khác. Sinh viên một lối sống tha hóa dễ dãi không coi trọng giá trị đạo đức truyền thống, phong tục tập quánCó nhiều sinh viên với lối sống quá dễ dãi, chạy theo trào lưu ví dụ như sống thử , những mặt tích cực của nó không đáng kể gì so với những mặt tiêu cực của nó. Cách sống này không được xã hội chấp nhận, phong tục, tập quán của Việt Nam không phù hợp với lối sống này. Có rất nhiều ý kiến, đánh giá được đưa ra cho sống thử, đều là những ý kiến không tán thành. Người phải chịu thiệt thòi nhiều nhất là người con gái, sau một thời gian sống thử, họ bị tổn thương về mặt tình cảm, suy sụp tinh thần, còn có nhiều hậu quả khó lường khác có thể xảy đến trong tương lai nhiều người không thể sinh con do lạo phá thai trong quá trình sống thử. Sinh viên chắc hẳn ai cũng biết được những tác hại đó nhưng họ vẫn làm. Thái độ bi quan, chán đời xuất hiện ở một số sinh viên cũng cần phải phê phán. Trong khi phần lớn thanh niên đều cố gắng sống và học tập vì tương lai, ít nhất vì lợi ích của bản thân, thì lại có những người chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt không đâu mà không tha thiết gì cuộc sống. Đôi khi chỉ vì thất tình hay không đạt được một điều mong muốn mà họ co mình lại thay đổi thái độ của bản thân thờ ơ với cuộc sống xung quanh, tinh thần suy sụp, thậm chí nhiều người ngốc nghếch suy nghĩ không thông còn tìm đến cái chết. Những chuyện tương tự như thế nghe thật nực nực cười nhưng không thể không nhắc tới. Theo các con số thống kê thì các vụ tự tử trong sinh viên xảy ra ngày càng nhiều, nguyên nhân của các vụ tự tử đó thường là do chuyện tình cảm đổ vỡ. Hoặc khi có một điều gì xảy không như họ null
sinh viên việt nam hiện nay